Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/536
Nhan đề: | NGHIÊN CỨU GIẢI PHẪU ĐA GIÁC WILLIS CỦA CÁC BỆNH NHÂN PHÌNH ĐỘNG MẠCH NÃO TRÊN MÁY CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH 128 DÃY TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI |
Tác giả: | PHẠM THU HÀ |
Người hướng dẫn: | 1. GS.TS. PHẠM MINH THÔNG, 2. TS. TRẦN ANH TUẤN |
Năm xuất bản: | 10/10/2018 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Trích dẫn: | Bệnh lý phình động mạch não (PĐMN) xảy ra trong 3-5% dân số thế giới và được định nghĩa là tình trạng tổn thương thành mạch, mất lớp nội mô phía trong và rách lớp áo giữa của thành động mạch [1, 2]. Nguyên nhân chính của phình động mạch não không phải là sự giãn thụ động của các cấu trúc mạch máu mà do ảnh hưởng của các yếu tố như viêm thành mạch và thoái hóa mô, các nguyên nhân khác có thể kể đến như do huyết động, yếu tố di truyền, hormon và yếu tố môi trường...[2]. Biến chứng nguy hiểm nhất của PĐMN là vỡ túi phình, chiếm 5-15% các ca đột quỵ do tai biến mạch máu não [3]. Vỡ phình mạch não là nguyên nhân chính gây xuất huyết dưới nhện (85%), theo đó, các trường hợp bị xuất huyết dưới nhện có tỷ lệ tử vong có thể lên đến 45% trong 30 ngày, và tỷ lệ di chứng không hồi phục lên đến 50% với các bệnh nhân sống [4].Theo nghiên cứu của ISUIA (International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms), tỷ lệ tử vong và biến chứng hàng năm do vỡ phình đa dãynói chung khoảng 10%. Mặc dù hiện nay có rất nhiều tiến bộ trong xử trí và điều trị bệnh nhân phình động mạch não, tỷ lệ tử vong và di chứng do vỡ túi phình vẫn cao [5]. Vì thế việc phát hiện sớm phình động mạch não và đánh giá các nguy cơ của vỡ túi phình có vai trò rất quan trọng trong việc phòng ngừa biến chứng, cũng như giúp lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu. Ngày nay chụp mạch số hoá xoá nền (DSA) vẫn là phương pháp tốt nhất, tin cậy nhất để chẩn đoán, định hướng điều trị phình động mạch não. Tuy nhiên chụp cắt lớp vi tính mạch máu và chụp cộng hưởng từ dựng hình mạch máu là những phương pháp không xâm lấn cũng giúp cho chẩn đoán chính xác vị trí, kích thước, hình dạng của túi phình mạch não [6], [7], [8]. Trong đó chụp cắt lớp vi tính mạch máu là phương pháp có thể chấp nhận để thay thế DSA và có đầy đủ chất lượng cũng như khả năng để xác định sự bất thường giải phẫu của đa giác Willis [9]. Ngoài ra chụp cắt lớp vi tính có thể xác định được những đặc điểm của túi phình mà máy chụp mạch số hoá xoá nền không thể chẩn đoán được hoặc rất khó khăn (huyết khối lòng, mảng vôi hoá thành túi phình, tổn thương nhu mô não lân cận và tình trạng chảy máu...). Nghiên cứu của Rahman và cộng sự [10] đã chỉ ra mối liên quan giữa kích thước của túi phình và kích thước của mạch máu với nguy cơ vỡ túi phình. Một nghiên cứu khác của Rooij và cộng sự [11] đã dựa vào các đánh giá hình ảnh của mạch máu để gián tiếp đánh giá hướng dòng chảy của dòng máu vào túi phình. Sự mất cân xứng của đa giác Willis dẫn đến sự mất cân xứng dòng chảy và là yếu tố quan trọng hình thành nên phình động mạch não [12]. Ngoài ra, đặc điểm bất thường giải phẫu của đa giác Willis cũng là yếu tố nguy cơ cao gây vỡ phình mạch [13]. Từ đó có thể thấy dựa trên việc đánh giá chi tiết hình ảnh giải phẫu có thể giúp các bác sỹ hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh cũng như tiên lượng khả năng biến chứng của các túi phình động mạch não. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu giải phẫu đa giác Willis của các bệnh nhân phình động mạch não trên máy chụp cắt lớp vi tính 128 dãy tại Bệnh viện Bạch Mai” với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm hình ảnh giải phẫu của đa giác Willis ở bệnh nhân phình động mạch não trên chụp cắt lớp vi tính 128 dãy. 2. Đánh giá mối liên quan giữa biến thể giải phẫu đa giác Willis với phình động mạch não trên cắt lớp vi tính 128 dãy. |
Tóm tắt: | Bệnh lý phình động mạch não (PĐMN) xảy ra trong 3-5% dân số thế giới và được định nghĩa là tình trạng tổn thương thành mạch, mất lớp nội mô phía trong và rách lớp áo giữa của thành động mạch [1, 2]. Nguyên nhân chính của phình động mạch não không phải là sự giãn thụ động của các cấu trúc mạch máu mà do ảnh hưởng của các yếu tố như viêm thành mạch và thoái hóa mô, các nguyên nhân khác có thể kể đến như do huyết động, yếu tố di truyền, hormon và yếu tố môi trường...[2]. Biến chứng nguy hiểm nhất của PĐMN là vỡ túi phình, chiếm 5-15% các ca đột quỵ do tai biến mạch máu não [3]. Vỡ phình mạch não là nguyên nhân chính gây xuất huyết dưới nhện (85%), theo đó, các trường hợp bị xuất huyết dưới nhện có tỷ lệ tử vong có thể lên đến 45% trong 30 ngày, và tỷ lệ di chứng không hồi phục lên đến 50% với các bệnh nhân sống [4].Theo nghiên cứu của ISUIA (International Study of Unruptured Intracranial Aneurysms), tỷ lệ tử vong và biến chứng hàng năm do vỡ phình đa dãynói chung khoảng 10%. Mặc dù hiện nay có rất nhiều tiến bộ trong xử trí và điều trị bệnh nhân phình động mạch não, tỷ lệ tử vong và di chứng do vỡ túi phình vẫn cao [5]. Vì thế việc phát hiện sớm phình động mạch não và đánh giá các nguy cơ của vỡ túi phình có vai trò rất quan trọng trong việc phòng ngừa biến chứng, cũng như giúp lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu. Ngày nay chụp mạch số hoá xoá nền (DSA) vẫn là phương pháp tốt nhất, tin cậy nhất để chẩn đoán, định hướng điều trị phình động mạch não. Tuy nhiên chụp cắt lớp vi tính mạch máu và chụp cộng hưởng từ dựng hình mạch máu là những phương pháp không xâm lấn cũng giúp cho chẩn đoán chính xác vị trí, kích thước, hình dạng của túi phình mạch não [6], [7], [8]. Trong đó chụp cắt lớp vi tính mạch máu là phương pháp có thể chấp nhận để thay thế DSA và có đầy đủ chất lượng cũng như khả năng để xác định sự bất thường giải phẫu của đa giác Willis [9]. Ngoài ra chụp cắt lớp vi tính có thể xác định được những đặc điểm của túi phình mà máy chụp mạch số hoá xoá nền không thể chẩn đoán được hoặc rất khó khăn (huyết khối lòng, mảng vôi hoá thành túi phình, tổn thương nhu mô não lân cận và tình trạng chảy máu...). Nghiên cứu của Rahman và cộng sự [10] đã chỉ ra mối liên quan giữa kích thước của túi phình và kích thước của mạch máu với nguy cơ vỡ túi phình. Một nghiên cứu khác của Rooij và cộng sự [11] đã dựa vào các đánh giá hình ảnh của mạch máu để gián tiếp đánh giá hướng dòng chảy của dòng máu vào túi phình. Sự mất cân xứng của đa giác Willis dẫn đến sự mất cân xứng dòng chảy và là yếu tố quan trọng hình thành nên phình động mạch não [12]. Ngoài ra, đặc điểm bất thường giải phẫu của đa giác Willis cũng là yếu tố nguy cơ cao gây vỡ phình mạch [13]. Từ đó có thể thấy dựa trên việc đánh giá chi tiết hình ảnh giải phẫu có thể giúp các bác sỹ hiểu rõ hơn về cơ chế bệnh sinh cũng như tiên lượng khả năng biến chứng của các túi phình động mạch não. Vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu giải phẫu đa giác Willis của các bệnh nhân phình động mạch não trên máy chụp cắt lớp vi tính 128 dãy tại Bệnh viện Bạch Mai” với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm hình ảnh giải phẫu của đa giác Willis ở bệnh nhân phình động mạch não trên chụp cắt lớp vi tính 128 dãy. 2. Đánh giá mối liên quan giữa biến thể giải phẫu đa giác Willis với phình động mạch não trên cắt lớp vi tính 128 dãy. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/536 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
Pham Thu Ha_Chan doan hinh anh.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 3.9 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.