Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/533
Nhan đề: NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ CÓ ĐỐI CHIẾU VỚI PHẪU THUẬT VÀ MÔ BỆNH HỌC Ở BỆNH NHÂN UNG THƯ TRỰC TRÀNG ĐƯỢC PHẪU THUẬT TRIỆT CĂN
Tác giả: PHẠM HỒNG THIỆN
Người hướng dẫn: 1. PGS.TS. Lê Văn Quảng, 2. TS. Trần Văn Công
Năm xuất bản: 10/9/2018
Nhà xuất bản: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Trích dẫn: Ung thư đại trực tràng (trong đó trên 50% là ung thư trực tràng) là bệnh phổ biến trên thế giới. Bệnh hay gặp ở các nước phát triển, nhưng đang có xu hướng gia tăng ở các nước đang phát triển. Theo số liệu ghi nhận của Tổ chức y tế thế giới năm 2012, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 3 về tỷ lệ mắc và đứng hàng thứ 2 về tỷ lệ tử vong sau ung thư phổi[1-3]. Tại Việt Nam,tỷ lệ mắc UTĐTT đứng hàng thứ năm ở cả hai giới, xuất độ 8768 ca và tử suất 5976 ca năm 2012, bệnh này có xu hướng tăng và ước tính năm 2020 sẽ có 11656 ca mắc mới [4]. Hiện nay, chẩn đoán xác định bệnh UTTT vẫn dựa vào nội soi và sinh thiết qua nội soi làm mô bệnh học. Việc chẩn đoán giai đoạn bệnh gần đây đã có nhiều tiến bộ. Trước đây, do hạn chế về phương tiện kỹ thuật, thăm khám trực tràng thường được sử dụng để xác định vị trí, mức độ di động của khối u. Tuy nhiên phương pháp này chỉ đánh giá được ung thư trực tràng thấp và trung bình, độ chính xác phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người thăm khám. Siêu âm nội soi ra đời mang lại khả năng đánh giá mức độ xâm lấn u và tình trạng di căn hạch có độ chính xác cao, nhưng hạn chế trong những trường hợp u bít hẹp lòng trực tràng hay dễ chảy máu. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của chẩn đoán hình ảnh đã mang lại cho các nhà lâm sàng nhiều phương pháp thăm dò hỗ trợ chẩn đoán chính xác mức độ xâm lấn của khối u và di căn hạch, đặc biệt là chụp cộng hưởng từ.Trên thế giới, chụp CHT trong ung thư trực tràng đã được ứng dụng từ những năm 1990, tại Việt Nam từ những năm 2000. Nhiều nghiên cứu về giá trị của chụp CHT trong ung thư trực tràng đã được công bố. Điều trị ung thư trực tràng dựa trên phối hợp đa mô thức, trong đó phẫu thuật đóng vai trò quan trọng nhất. Hiện nay, quan điểm điều trị UTTT đã có nhiều thay đổi với xu hướng điều trị tân bổ trợ trong các UTTT giai đoạn T3/T4 hoặc có di căn hạch. Do đó, việc đánh giá giai đoạn trước mổ là hết sức quan trọng để các bác sỹ lâm sàng đưa ra chiến lược điều trị đúng đắn cho bệnh nhân. Chụp CHT trong chẩn đoán UTTT ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới vì lợi thế là phương pháp không xâm lấn, an toàn và có độ chính xác cao. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nhận xét đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ có đối chiếu với phẫu thuật và mô bệnh học ở bệnh nhân ung thư trực tràng được phẫu thuật triệt căn”với hai mục tiêu: 1. Nhận xét một sốđặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư trực tràngđược phẫu thuật triệt căn. 2. Đối chiếu hình ảnh cộng hưởng từ với chẩn đoán phẫu thuật và mô bệnh học.
Tóm tắt: Ung thư đại trực tràng (trong đó trên 50% là ung thư trực tràng) là bệnh phổ biến trên thế giới. Bệnh hay gặp ở các nước phát triển, nhưng đang có xu hướng gia tăng ở các nước đang phát triển. Theo số liệu ghi nhận của Tổ chức y tế thế giới năm 2012, ung thư đại trực tràng đứng hàng thứ 3 về tỷ lệ mắc và đứng hàng thứ 2 về tỷ lệ tử vong sau ung thư phổi[1-3]. Tại Việt Nam,tỷ lệ mắc UTĐTT đứng hàng thứ năm ở cả hai giới, xuất độ 8768 ca và tử suất 5976 ca năm 2012, bệnh này có xu hướng tăng và ước tính năm 2020 sẽ có 11656 ca mắc mới [4]. Hiện nay, chẩn đoán xác định bệnh UTTT vẫn dựa vào nội soi và sinh thiết qua nội soi làm mô bệnh học. Việc chẩn đoán giai đoạn bệnh gần đây đã có nhiều tiến bộ. Trước đây, do hạn chế về phương tiện kỹ thuật, thăm khám trực tràng thường được sử dụng để xác định vị trí, mức độ di động của khối u. Tuy nhiên phương pháp này chỉ đánh giá được ung thư trực tràng thấp và trung bình, độ chính xác phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người thăm khám. Siêu âm nội soi ra đời mang lại khả năng đánh giá mức độ xâm lấn u và tình trạng di căn hạch có độ chính xác cao, nhưng hạn chế trong những trường hợp u bít hẹp lòng trực tràng hay dễ chảy máu. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của chẩn đoán hình ảnh đã mang lại cho các nhà lâm sàng nhiều phương pháp thăm dò hỗ trợ chẩn đoán chính xác mức độ xâm lấn của khối u và di căn hạch, đặc biệt là chụp cộng hưởng từ.Trên thế giới, chụp CHT trong ung thư trực tràng đã được ứng dụng từ những năm 1990, tại Việt Nam từ những năm 2000. Nhiều nghiên cứu về giá trị của chụp CHT trong ung thư trực tràng đã được công bố. Điều trị ung thư trực tràng dựa trên phối hợp đa mô thức, trong đó phẫu thuật đóng vai trò quan trọng nhất. Hiện nay, quan điểm điều trị UTTT đã có nhiều thay đổi với xu hướng điều trị tân bổ trợ trong các UTTT giai đoạn T3/T4 hoặc có di căn hạch. Do đó, việc đánh giá giai đoạn trước mổ là hết sức quan trọng để các bác sỹ lâm sàng đưa ra chiến lược điều trị đúng đắn cho bệnh nhân. Chụp CHT trong chẩn đoán UTTT ngày càng trở nên phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới vì lợi thế là phương pháp không xâm lấn, an toàn và có độ chính xác cao. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Nhận xét đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ có đối chiếu với phẫu thuật và mô bệnh học ở bệnh nhân ung thư trực tràng được phẫu thuật triệt căn”với hai mục tiêu: 1. Nhận xét một sốđặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư trực tràngđược phẫu thuật triệt căn. 2. Đối chiếu hình ảnh cộng hưởng từ với chẩn đoán phẫu thuật và mô bệnh học.
Định danh: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/533
Bộ sưu tập: Luận văn thạc sĩ

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
Pham Hong Thien_Ung thu.pdf
  Tập tin giới hạn truy cập
3.23 MBAdobe PDF Đăng nhập để xem toàn văn


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.