Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/529
Title: NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG PHỐI HỢP CỦA PLASMA LẠNH TRONG ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN VẾT MỔ NÔNG THÀNH BỤNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Authors: NGUYỄN VĂN DIỆU
Advisor: TS. Nguyễn Quảng Bắc
Issue Date: 25/9/2018
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Citation: Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là một biến chứng thường gặp sau mổ tại các bệnh viện, theo tính toán hàng năm tại Mỹ có khoảng 2 - 5% nhiễm khuẩn vết mổ trong số 16 triệu ca phẫu thuật, chiếm hàng thứ hai trong các loại nhiễm khuẩn bệnh viện. Mổ lấy thai tuy là một cuộc mổ sạch nhưng vẫn có một tỷ lệ bị nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ, theo Bagratee và Moodley [1], nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 13,3% trong các nhiễm khuẩn sau mổ đẻ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo [2], thì tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương (BVPSTW) năm 2016 là 14,15%. Tỷ lệ nhiễm khuẩn, toác thành bụng sau mổ lấy thai ngày càng tăng do tỷ lệ mổ tăng. Tỷ lệ mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 1993 là 23,45% [3], đến năm 1998 đã tăng lên 34,9% [4] năm 2000 là 35,1% [5], thậm chí là 39,1% trong năm 2005 [6]. Có rất nhiều yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ thành bụng sau mổ sản phụ khoa bao gồm: béo phì, có tăng độ dày lớp mỡ dưới da, tăng huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường, các bệnh lý toàn thân trước phẫu thuật, nhiễm trùng trước phẫu thuật ở bộ phận khác, thời gian mổ kéo dài, không có kháng sinh dự phòng trước phẫu thuật, mất máu trong quá trình phẫu thuật hay sự phát triển của khối máu tụ dưới da [7],[8]. Nhiễm khuẩn vết mổ do nhiều nguồn gốc khác nhau: có thể từ các vi khuẩn cư trú trên da bệnh nhân, từ môi trường chung quanh, từ các dụng cụ y tế, từ môi trường bệnh viện [1], [9],[10]. Vết mổ với mô thương tổn, protein biến tính, dịch tiết là môi trường cho vi khuẩn (VK) sinh trưởng. Hoại tử gây tắc nghẽn mạch, làm các thành phần bảo vệ (bạch cầu, kháng thể...) và kháng sinh không ngấm vào được càng tạo điều kiện cho VK phát triển [2],[3], VK phát triển làm vết mổ chậm liền, khi xâm lấn vào sâu phần mô lành gây trạng thái nhiễm khuẩn tại chỗ, nếu không được kiểm soát có thể gây nhiễm trùng lan ra toàn thân, gây nhiễm độc do các độc tố của VK. Hậu quả gây đáp ứng viêm hệ thống, hình thành các chất trung gian viêm, các men, sản phẩm chuyển hoá gây rối loạn toàn thân. Rối loạn chuyển hoá, suy giảm miễn dịch, nhiễm khuẩn tại chỗ và toàn thân tạo một vòng xoắn bệnh lý [4],[5]. Tuy nhiên, tỷ lệ kháng kháng sinh ngày càng gia tăng gây ra mối quan ngại về điều trị nhiễm khuẩn trong tương lai. Trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, vấn đề kháng thuốc đã trở nên báo động. Gánh nặng về chi phí điều trị do các bệnh nhiễm khuẩn gây ra khá lớn do việc thay thế các kháng sinh cũ bằng các kháng sinh mới, đắt tiền [11],[12]. Trước tình trạng kháng kháng sinh của vi sinh vật ngày càng gia tăng gây khó khăn trong điều trị, bên cạnh việc đào tạo, tuyên truyền sử dụng kháng sinh đúng cách, phát triển thuốc mới, việc nghiên cứu những ứng dụng có khả năng diệt vi sinh vật để hỗ trợ hay thay thế một phần cho điều trị kháng sinh là rất quan trọng. Trong đó, nghiên cứu ứng dụng plasma trong diệt khuẩn rất đáng được quan tâm, ứng dụng này đã phát triển rất mạnh trong những năm gần đây ở các nước phát triển trên thế giới [13]. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác dụng phối hợp của PLASMA lạnh trong điều trị nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương” với hai mục tiêu: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng tại bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 7 năm 2018. 2. Đánh giá hiệu quả phối hợp của plasma lạnh trong điều trị nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng.
Abstract: Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là một biến chứng thường gặp sau mổ tại các bệnh viện, theo tính toán hàng năm tại Mỹ có khoảng 2 - 5% nhiễm khuẩn vết mổ trong số 16 triệu ca phẫu thuật, chiếm hàng thứ hai trong các loại nhiễm khuẩn bệnh viện. Mổ lấy thai tuy là một cuộc mổ sạch nhưng vẫn có một tỷ lệ bị nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ, theo Bagratee và Moodley [1], nhiễm khuẩn vết mổ chiếm 13,3% trong các nhiễm khuẩn sau mổ đẻ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương Thảo [2], thì tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ sau mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương (BVPSTW) năm 2016 là 14,15%. Tỷ lệ nhiễm khuẩn, toác thành bụng sau mổ lấy thai ngày càng tăng do tỷ lệ mổ tăng. Tỷ lệ mổ lấy thai tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 1993 là 23,45% [3], đến năm 1998 đã tăng lên 34,9% [4] năm 2000 là 35,1% [5], thậm chí là 39,1% trong năm 2005 [6]. Có rất nhiều yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ thành bụng sau mổ sản phụ khoa bao gồm: béo phì, có tăng độ dày lớp mỡ dưới da, tăng huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường, các bệnh lý toàn thân trước phẫu thuật, nhiễm trùng trước phẫu thuật ở bộ phận khác, thời gian mổ kéo dài, không có kháng sinh dự phòng trước phẫu thuật, mất máu trong quá trình phẫu thuật hay sự phát triển của khối máu tụ dưới da [7],[8]. Nhiễm khuẩn vết mổ do nhiều nguồn gốc khác nhau: có thể từ các vi khuẩn cư trú trên da bệnh nhân, từ môi trường chung quanh, từ các dụng cụ y tế, từ môi trường bệnh viện [1], [9],[10]. Vết mổ với mô thương tổn, protein biến tính, dịch tiết là môi trường cho vi khuẩn (VK) sinh trưởng. Hoại tử gây tắc nghẽn mạch, làm các thành phần bảo vệ (bạch cầu, kháng thể...) và kháng sinh không ngấm vào được càng tạo điều kiện cho VK phát triển [2],[3], VK phát triển làm vết mổ chậm liền, khi xâm lấn vào sâu phần mô lành gây trạng thái nhiễm khuẩn tại chỗ, nếu không được kiểm soát có thể gây nhiễm trùng lan ra toàn thân, gây nhiễm độc do các độc tố của VK. Hậu quả gây đáp ứng viêm hệ thống, hình thành các chất trung gian viêm, các men, sản phẩm chuyển hoá gây rối loạn toàn thân. Rối loạn chuyển hoá, suy giảm miễn dịch, nhiễm khuẩn tại chỗ và toàn thân tạo một vòng xoắn bệnh lý [4],[5]. Tuy nhiên, tỷ lệ kháng kháng sinh ngày càng gia tăng gây ra mối quan ngại về điều trị nhiễm khuẩn trong tương lai. Trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển, vấn đề kháng thuốc đã trở nên báo động. Gánh nặng về chi phí điều trị do các bệnh nhiễm khuẩn gây ra khá lớn do việc thay thế các kháng sinh cũ bằng các kháng sinh mới, đắt tiền [11],[12]. Trước tình trạng kháng kháng sinh của vi sinh vật ngày càng gia tăng gây khó khăn trong điều trị, bên cạnh việc đào tạo, tuyên truyền sử dụng kháng sinh đúng cách, phát triển thuốc mới, việc nghiên cứu những ứng dụng có khả năng diệt vi sinh vật để hỗ trợ hay thay thế một phần cho điều trị kháng sinh là rất quan trọng. Trong đó, nghiên cứu ứng dụng plasma trong diệt khuẩn rất đáng được quan tâm, ứng dụng này đã phát triển rất mạnh trong những năm gần đây ở các nước phát triển trên thế giới [13]. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tác dụng phối hợp của PLASMA lạnh trong điều trị nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương” với hai mục tiêu: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng tại bệnh viện Phụ sản Trung ương từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 7 năm 2018. 2. Đánh giá hiệu quả phối hợp của plasma lạnh trong điều trị nhiễm khuẩn vết mổ nông thành bụng.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/529
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
Nguyen Van Dieu_San phu khoa.pdf
  Restricted Access
1.68 MBAdobe PDF Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.