Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/511
Nhan đề: | NGHIÊN CỨU CHỈ SỐ TEI THẤT PHẢI TRÊN SIÊU ÂM DOPPLER MÔ CƠ TIM VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI VỊ TRÍ TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH VÀNH PHẢIỞ BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CƠ TIM SAU DƯỚI CẤP |
Tác giả: | LÒ THÀNH SƠN ANH |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. Nguyễn Thị Bạch Yến |
Năm xuất bản: | 9/10/2018 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Trích dẫn: | Nhồi máu cơ tim (NMCT) sau dưới cấp chiếm khoảng 40- 50% trong số bệnh nhân NMCT có ST chênh lên. Ở bệnh nhân NMCT thành dưới cấp, động mạch vành (ĐMV) thủ phạm thường là ĐMV phải (chiếm 80%), một số ít là động mạch mũ [1]. Tắc cấp tính đoạn gần của ĐMV phải trước chỗ xuất phát của nhánh thất phải( RV brands) thường dẫn đến nhồi máu thất phải [2], đây là những trường hợp có nguy cơ cao bị sốc tim, rối loạn nhịp và tử vong [3]. Tỉ lệ tử vong đối với bệnh nhân NMCT sau dưới cấp có nhồi máu thất phải do tổn thương ĐMV phải đoạn gần là 16%, cao hơn so với các bệnh nhân chỉ NMCT sau dưới đơn độc (3,5%). Vì vậy việc xác định vị trí ĐMV thủ phạm là rất quan trọng đối với phân tầng nguy cơ và tối ưu hóa các chiến lược điều trị cho bệnh nhân NMCT thành dưới cấp tính. Điện tâm đồ( ĐTĐ) là thăm dò thường quy được sử dụng trong chẩn đoán NMCT và chẩn đoán định khu vùng nhồi máu. Tuy nhiên, trong dự báo tắc đoạn gần ĐMV phải, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau, ĐTĐ cần phải đánh giá nhiều lần và vì vậy có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp [4]. Ngày nay siêu âm tim (SAT) đã trở thành phương pháp trụ cột trong việc đánh giá thất phải trong thực hành lâm sàng hàng ngày. Tuy nhiên, hình dạng thất phải khá phức tạp, đặt ra những khó khăn đáng kể trong việc đánh giá chức năng thất phải [5]. Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu vai trò của một số thông số đánh giá chức năng thất phải trên SAT (như chỉ số TAPSE, chỉ số Tei thất phải, chỉ số E/E’...) trong việc dự đoán tắc đoạn gần ĐMV phải ở bệnh nhân NMCT thành dưới [6]. Nghiên cứu của tác giả Maha.H El Sebaiea đã cho thấy trong số các thông số đánh giá chức năng thất phải thì chỉ số chức năng thất phải (MPI-Tei thất phải) ghi ở thành bên vòng van ba lá, trên siêu âm Doppler mô là chỉ số có giá trị mạnh nhất trong dự báo tắc đoạn gần ĐMV phải [7]. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chỉ số Tei thất phải trong đánh giá chức năng thất phải, nhưng chưa có đề tài về chỉ số Tei thất phải trong dự báo vị trí tắc ĐMV ở bệnh nhân NMCT. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim và mối liên quan với vị trí tổn thương ĐMV phải ở bệnh nhân NMCT sau dưới cấp” nhằm đạt được 2 mục tiêu cụ thể sau: 1. Khảo sát chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân NMCT sau dưới cấp. 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim với vị trí tổn thương ĐMV phải ở các bệnh nhân này. |
Tóm tắt: | Nhồi máu cơ tim (NMCT) sau dưới cấp chiếm khoảng 40- 50% trong số bệnh nhân NMCT có ST chênh lên. Ở bệnh nhân NMCT thành dưới cấp, động mạch vành (ĐMV) thủ phạm thường là ĐMV phải (chiếm 80%), một số ít là động mạch mũ [1]. Tắc cấp tính đoạn gần của ĐMV phải trước chỗ xuất phát của nhánh thất phải( RV brands) thường dẫn đến nhồi máu thất phải [2], đây là những trường hợp có nguy cơ cao bị sốc tim, rối loạn nhịp và tử vong [3]. Tỉ lệ tử vong đối với bệnh nhân NMCT sau dưới cấp có nhồi máu thất phải do tổn thương ĐMV phải đoạn gần là 16%, cao hơn so với các bệnh nhân chỉ NMCT sau dưới đơn độc (3,5%). Vì vậy việc xác định vị trí ĐMV thủ phạm là rất quan trọng đối với phân tầng nguy cơ và tối ưu hóa các chiến lược điều trị cho bệnh nhân NMCT thành dưới cấp tính. Điện tâm đồ( ĐTĐ) là thăm dò thường quy được sử dụng trong chẩn đoán NMCT và chẩn đoán định khu vùng nhồi máu. Tuy nhiên, trong dự báo tắc đoạn gần ĐMV phải, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều mô hình khác nhau, ĐTĐ cần phải đánh giá nhiều lần và vì vậy có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp [4]. Ngày nay siêu âm tim (SAT) đã trở thành phương pháp trụ cột trong việc đánh giá thất phải trong thực hành lâm sàng hàng ngày. Tuy nhiên, hình dạng thất phải khá phức tạp, đặt ra những khó khăn đáng kể trong việc đánh giá chức năng thất phải [5]. Trong những năm gần đây đã có một số nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu vai trò của một số thông số đánh giá chức năng thất phải trên SAT (như chỉ số TAPSE, chỉ số Tei thất phải, chỉ số E/E’...) trong việc dự đoán tắc đoạn gần ĐMV phải ở bệnh nhân NMCT thành dưới [6]. Nghiên cứu của tác giả Maha.H El Sebaiea đã cho thấy trong số các thông số đánh giá chức năng thất phải thì chỉ số chức năng thất phải (MPI-Tei thất phải) ghi ở thành bên vòng van ba lá, trên siêu âm Doppler mô là chỉ số có giá trị mạnh nhất trong dự báo tắc đoạn gần ĐMV phải [7]. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây đã có nhiều đề tài nghiên cứu về chỉ số Tei thất phải trong đánh giá chức năng thất phải, nhưng chưa có đề tài về chỉ số Tei thất phải trong dự báo vị trí tắc ĐMV ở bệnh nhân NMCT. Chính vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim và mối liên quan với vị trí tổn thương ĐMV phải ở bệnh nhân NMCT sau dưới cấp” nhằm đạt được 2 mục tiêu cụ thể sau: 1. Khảo sát chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim ở bệnh nhân NMCT sau dưới cấp. 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa chỉ số Tei thất phải trên siêu âm Doppler mô cơ tim với vị trí tổn thương ĐMV phải ở các bệnh nhân này. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/511 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
Lo Thanh Son Anh_Tim Mach.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 1.97 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.