Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/504
Title: NHẬN XÉT KẾT QUẢ CÓ THAI TRÊN BỆNH NHÂN ĐÃ MỔ NỘI SOI VÔ SINH ĐƯỢC CHỈ ĐỊNH BƠM TINH TRÙNG VÀO BUỒNG TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Authors: DƯƠNG THỊ TRÀ GIANG
Advisor: PGS.TS. Đặng Thị Minh Nguyệt
Issue Date: 3/10/2018
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Citation: Vô sinh được định nghĩa là tình trạng cặp vợ chồng không có khả năng có thai tự nhiên sau 1 năm quan hệ tình dục đều đặn, không sử dụng biện pháp tránh thai nào. Tuy nhiên, đối với trường hợp người vợ trên 35 tuổi, các phương pháp chẩn đoán và điều trị có thể được đặt ra sau 6 tháng theo dõi [1]. Theo nghiên cứu thống kê của Maya N. Mascarenhas và cộng sự, dựa trên 227 nghiên cứu khác được tiến hành trên 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, cho thấy tỷ lệ vô sinh nguyên phát trong nhóm phụ nữ 20 đến 44 tuổi là 1.9%; trong khi tỷ lệ vô sinh thứ phát là 10.5%. Số lượng bệnh nhân vô sinh tăng lên theo từng năm, từ 42 triệu người năm 1990 lên 48.5 triệu người năm 2010 [2]. Tỷ lệ vô sinh chung trên thế giới là 9% [3]. Tại Việt Nam, năm 2009, tỷ lệ vô sinh chung là 7.7%, theo một nghiên cứu của Nguyễn Viết Tiến và cộng sự [4]. Việc xác định nguyên nhân và điều trị vô sinh không chỉ là vấn đề thuộc phạm trù y học mà còn có tính nhân văn, đảm bảo quyền con người, đem lại hạnh phúc gia đình, góp phần duy trì nòi giống và phát triển chung của xã hội. Các nguyên nhân chủ yếu gây vô sinh bao gồm yếu tố phóng noãn (20%), yếu tố vòi tử cung – tiểu khung (30%) và các yếu tố khác do chồng (30%). Khoảng 40% các cặp vợ chồng vô sinh có nhiều nguyên nhân phối hợp và có khoảng 15 % trường hợp không tìm được nguyên nhân [5]. Các phương pháp điều trị vô sinh rất đa dạng, từ các phương pháp không can thiệp như dùng thuốc kích thích rụng trứng, chọn thời điểm quan hệ tình dục tự nhiên cho đến các phương pháp can thiêp như bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination – IUI), chọc noãn và thụ tinh trong ống nghiệm (In vivo fertilization – IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection –ICSI). Tuy nhiên, sự lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân, mức độ và thời gian vô sinh, tuổi bệnh nhân, khả năng chịu đựng tác dụng phụ, tiền sử đáp ứng điều trị và tác dụng phụ đối với những lần điều trị trước và điều kiện trang thiết bị y tế cũng như sự phát triển của hệ thống y tế. [6]. Với mục đích xác định nguyên nhân gây vô sinh cũng như tiến hành những can thiệp nếu cần thiết, nội soi chẩn đoán và điều trị vô sinh ngày càng được áp dụng rộng rãi. Nội soi cung cấp hình ảnh trực tiếp tổn thương đồng thời cho phép phẫu thuật viên có thể tiến hành gỡ dính, mở thông vòi tử cung hoặc nhiều can thiệp khác. Dựa trên mức độ tổn thương trên nội soi vô sinh, ta có thể định hướng phương pháp điều trị tiếp theo phù hợp nhất cho bệnh nhân (IUI, IVF hay chọn thời điểm QHTD đơn thuần). IUI là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, ít nguy hiểm hơn so với IVF đồng thời làm giảm gánh nặng tâm lý cho bệnh nhân và gia đình, được chỉ định cho những người phụ nữ có thông ít nhất 1 vòi tử cung. Tuy nhiên, hiệu quả của IUI trên các bệnh nhân sau nội soi vô sinh, đặc biệt trong các trường hợp tổn thương vòi tử cung nặng, còn nhiều nghi vấn. Nhằm mục đích đưa ra các số liệu cụ thể, góp phần làm rõ tác dụng của phương pháp điều trị vô sinh này, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài “Nhận xét kết quả có thai trên bệnh nhân đã mổ nội soi vô sinh được chỉ định bơm tinh trùng vào buồng tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương” với 2 mục đích: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân IUI sau mổ nội soi vô sinh tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. 2. Nhận xét kết quả có thai của những bệnh nhân trên.
Abstract: Vô sinh được định nghĩa là tình trạng cặp vợ chồng không có khả năng có thai tự nhiên sau 1 năm quan hệ tình dục đều đặn, không sử dụng biện pháp tránh thai nào. Tuy nhiên, đối với trường hợp người vợ trên 35 tuổi, các phương pháp chẩn đoán và điều trị có thể được đặt ra sau 6 tháng theo dõi [1]. Theo nghiên cứu thống kê của Maya N. Mascarenhas và cộng sự, dựa trên 227 nghiên cứu khác được tiến hành trên 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, cho thấy tỷ lệ vô sinh nguyên phát trong nhóm phụ nữ 20 đến 44 tuổi là 1.9%; trong khi tỷ lệ vô sinh thứ phát là 10.5%. Số lượng bệnh nhân vô sinh tăng lên theo từng năm, từ 42 triệu người năm 1990 lên 48.5 triệu người năm 2010 [2]. Tỷ lệ vô sinh chung trên thế giới là 9% [3]. Tại Việt Nam, năm 2009, tỷ lệ vô sinh chung là 7.7%, theo một nghiên cứu của Nguyễn Viết Tiến và cộng sự [4]. Việc xác định nguyên nhân và điều trị vô sinh không chỉ là vấn đề thuộc phạm trù y học mà còn có tính nhân văn, đảm bảo quyền con người, đem lại hạnh phúc gia đình, góp phần duy trì nòi giống và phát triển chung của xã hội. Các nguyên nhân chủ yếu gây vô sinh bao gồm yếu tố phóng noãn (20%), yếu tố vòi tử cung – tiểu khung (30%) và các yếu tố khác do chồng (30%). Khoảng 40% các cặp vợ chồng vô sinh có nhiều nguyên nhân phối hợp và có khoảng 15 % trường hợp không tìm được nguyên nhân [5]. Các phương pháp điều trị vô sinh rất đa dạng, từ các phương pháp không can thiệp như dùng thuốc kích thích rụng trứng, chọn thời điểm quan hệ tình dục tự nhiên cho đến các phương pháp can thiêp như bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intrauterine insemination – IUI), chọc noãn và thụ tinh trong ống nghiệm (In vivo fertilization – IVF) hay tiêm tinh trùng vào bào tương của noãn (Intracytoplasmic Sperm Injection –ICSI). Tuy nhiên, sự lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào nguyên nhân, mức độ và thời gian vô sinh, tuổi bệnh nhân, khả năng chịu đựng tác dụng phụ, tiền sử đáp ứng điều trị và tác dụng phụ đối với những lần điều trị trước và điều kiện trang thiết bị y tế cũng như sự phát triển của hệ thống y tế. [6]. Với mục đích xác định nguyên nhân gây vô sinh cũng như tiến hành những can thiệp nếu cần thiết, nội soi chẩn đoán và điều trị vô sinh ngày càng được áp dụng rộng rãi. Nội soi cung cấp hình ảnh trực tiếp tổn thương đồng thời cho phép phẫu thuật viên có thể tiến hành gỡ dính, mở thông vòi tử cung hoặc nhiều can thiệp khác. Dựa trên mức độ tổn thương trên nội soi vô sinh, ta có thể định hướng phương pháp điều trị tiếp theo phù hợp nhất cho bệnh nhân (IUI, IVF hay chọn thời điểm QHTD đơn thuần). IUI là một phương pháp đơn giản, rẻ tiền, ít nguy hiểm hơn so với IVF đồng thời làm giảm gánh nặng tâm lý cho bệnh nhân và gia đình, được chỉ định cho những người phụ nữ có thông ít nhất 1 vòi tử cung. Tuy nhiên, hiệu quả của IUI trên các bệnh nhân sau nội soi vô sinh, đặc biệt trong các trường hợp tổn thương vòi tử cung nặng, còn nhiều nghi vấn. Nhằm mục đích đưa ra các số liệu cụ thể, góp phần làm rõ tác dụng của phương pháp điều trị vô sinh này, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài “Nhận xét kết quả có thai trên bệnh nhân đã mổ nội soi vô sinh được chỉ định bơm tinh trùng vào buồng tử cung tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương” với 2 mục đích: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân IUI sau mổ nội soi vô sinh tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương. 2. Nhận xét kết quả có thai của những bệnh nhân trên.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/504
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
Duong Thi Tra Giang_San phu khoa.pdf
  Restricted Access
1.85 MBAdobe PDF Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.