Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/484
Nhan đề: | ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HÓA TRỊ TRƯỚC VÀ XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI CARBOPLATIN HÀNG TUẦN UNG THƯ BIỂU MÔ VẢY ĐẦU CỔ GIAI ĐOẠN IVA-IVB |
Tác giả: | LẠI MINH BÁCH |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. Ngô Thanh Tùng |
Năm xuất bản: | 10/10/2018 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Trích dẫn: | Theo ước tính tại Hoa Kỳ, năm 2014 có 55.070 ca ung thư khoang miệng, họng, thanh quản, chiếm 3% tổng số ca bệnh mới được chẩn đoán và khoảng 12.000 ca tử vong do ung thư đầu cổ [1]. Ung thư biểu mô vảy chiếm trên 90 % thể mô bệnh học của các ung thư đầu cổ. Khi bệnh đã ở giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng thường phải kết hợp các phương thức điều trị. Phẫu thuật cần được xét chỉ định trước. Nếu bệnh không còn chỉ định phẫu thuật thì cân nhắc: Xạ trị đơn thuần triệt căn, hóa xạ đồng thời hoặc phác đồ có điều trị hóa chất cảm ứng (induction therapy) [2]. Hiện nay, điều trị chuẩn cho các ung thư biểu mô vẩy vùng đầu cổ không mổ được là hóa xạ trị đồng thời hoặc hóa trị trước rồi hóa xạ trị đồng thời [2]. Theo hướng dẫn từ NCCN v 2.2017, pha hóa xạ đồng thời thường dùng hàng tuần bằng carboplatin hoặc cetuximab. Thử nghiệm lâm sàng pha III TAX 234 trên 501 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy (khoang miệng, họng miệng, thanh quản, hạ họng) không mổ được (T3,4 hoặc N2,3) được chia hai nhóm. Nhóm dùng hóa trị cảm ứng phác đồ TPF (Docetaxel, Cisplatin và Fluorouracil) và nhóm dùng phác đồ PF (Cisplatin, Fluorouracil). Sau đó, cả hai nhóm được hóa xạ đồng thời với carboplatin hàng tuần khi xạ trị. Thời gian theo dõi trung bình 72,2 tháng (95% CI 68,8-75,5). Sống thêm toàn bộ tốt hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm dùng TPF so với PF (hazard ratio [HR] 0,74; 95% CI 0,58-0,94), với sống thêm 5 năm là 52% ỏ nhóm dùng TPF và 42% ở nhóm dùng PF. Sống thêm trung bình là 70,6 tháng (95% CI 49,0-89,0) ở nhóm dùng TPF so với 34,8 tháng (22,6-48,0) ở nhóm dùng PF (p=0,014) [3]. Tại bệnh viện K, hiện đang thực hiện cả hai phác đồ: hóa xạ đồng thời hoặc hóa trị cảm ứng, sau đó là hóa xạ trị đồng thời. Từ năm 2017, khi bệnh không mổ được, giai đoạn N2,3 M0 hoặc một số ca tiên lượng có thể mổ được sau hóa trị cảm ứng thì chỉ định hóa trị trước và hóa xạ đồng thời phác đồ tuần. Cho đến nay, chưa có kết quả đánh giá. Do đó, đề tài này thực hiện với hai mục tiêu: 1. Đánh giá đáp ứng của phác đồ hóa trị trước và hóa xạ đồng thời ung thư biểu mô vảy đầu cổ giai đoạn IVA-IVB tại bệnh viện K năm 2017-2018 2. Đánh giá một số tác dụng không mong muốn của phác đồ |
Tóm tắt: | Theo ước tính tại Hoa Kỳ, năm 2014 có 55.070 ca ung thư khoang miệng, họng, thanh quản, chiếm 3% tổng số ca bệnh mới được chẩn đoán và khoảng 12.000 ca tử vong do ung thư đầu cổ [1]. Ung thư biểu mô vảy chiếm trên 90 % thể mô bệnh học của các ung thư đầu cổ. Khi bệnh đã ở giai đoạn tiến triển tại chỗ, tại vùng thường phải kết hợp các phương thức điều trị. Phẫu thuật cần được xét chỉ định trước. Nếu bệnh không còn chỉ định phẫu thuật thì cân nhắc: Xạ trị đơn thuần triệt căn, hóa xạ đồng thời hoặc phác đồ có điều trị hóa chất cảm ứng (induction therapy) [2]. Hiện nay, điều trị chuẩn cho các ung thư biểu mô vẩy vùng đầu cổ không mổ được là hóa xạ trị đồng thời hoặc hóa trị trước rồi hóa xạ trị đồng thời [2]. Theo hướng dẫn từ NCCN v 2.2017, pha hóa xạ đồng thời thường dùng hàng tuần bằng carboplatin hoặc cetuximab. Thử nghiệm lâm sàng pha III TAX 234 trên 501 bệnh nhân ung thư biểu mô vảy (khoang miệng, họng miệng, thanh quản, hạ họng) không mổ được (T3,4 hoặc N2,3) được chia hai nhóm. Nhóm dùng hóa trị cảm ứng phác đồ TPF (Docetaxel, Cisplatin và Fluorouracil) và nhóm dùng phác đồ PF (Cisplatin, Fluorouracil). Sau đó, cả hai nhóm được hóa xạ đồng thời với carboplatin hàng tuần khi xạ trị. Thời gian theo dõi trung bình 72,2 tháng (95% CI 68,8-75,5). Sống thêm toàn bộ tốt hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm dùng TPF so với PF (hazard ratio [HR] 0,74; 95% CI 0,58-0,94), với sống thêm 5 năm là 52% ỏ nhóm dùng TPF và 42% ở nhóm dùng PF. Sống thêm trung bình là 70,6 tháng (95% CI 49,0-89,0) ở nhóm dùng TPF so với 34,8 tháng (22,6-48,0) ở nhóm dùng PF (p=0,014) [3]. Tại bệnh viện K, hiện đang thực hiện cả hai phác đồ: hóa xạ đồng thời hoặc hóa trị cảm ứng, sau đó là hóa xạ trị đồng thời. Từ năm 2017, khi bệnh không mổ được, giai đoạn N2,3 M0 hoặc một số ca tiên lượng có thể mổ được sau hóa trị cảm ứng thì chỉ định hóa trị trước và hóa xạ đồng thời phác đồ tuần. Cho đến nay, chưa có kết quả đánh giá. Do đó, đề tài này thực hiện với hai mục tiêu: 1. Đánh giá đáp ứng của phác đồ hóa trị trước và hóa xạ đồng thời ung thư biểu mô vảy đầu cổ giai đoạn IVA-IVB tại bệnh viện K năm 2017-2018 2. Đánh giá một số tác dụng không mong muốn của phác đồ |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/484 |
Bộ sưu tập: | Luận văn chuyên khoa 2 |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
Lai Minh Bach_Ung thu.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 2.08 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.