Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/4324
Nhan đề: Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật ghép gan tại Bệnh Viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2016-2021
Tác giả: Lê Quang, Thắng
Người hướng dẫn: Nguyễn Quang, Nghĩa
Từ khoá: ghép gan
Năm xuất bản: 2022
Tóm tắt: ĐẶT VẤN ĐỀ Ghép gan là phẫu thuật thay thế gan bệnh bằng một phần hay toàn bộ gan lành từ người cho. Phẫu thuật ghép gan là một trong những phương pháp điều trị mới, một thành tựu to lớn của y học trong thế kỉ 20. Phẫu thuật ghép gan lần đầu tiên được thực hiện trên chó bởi C.Stuart Welch tại trường đại học Albany (Nework - Mỹ), cho đến khi xuất hiện thuốc ức chế miễn dịch (Azathioprine - Prednisolon) và quy trình bảo quản tạng đã hoàn thiện quá trình thực hiện ghép gan. Ngày 01/03/1963 tại Denver - Colorado (Mỹ), Thimas E. Starzl lần đầu tiên thực hiện ghép gan trên người, tuy nhiên cuộc phẫu thuật không thành công, BN đã chết trên bàn do không cầm được máu, sau đó 6 ca ghép gan tiếp theo được thực hiện tại Denver, Boston và tại Paris cũng không thành công, BN sống lâu nhất là 75 ngày. Sau 3 năm với các nghiên cứu về hòa hợp miễn dịch, thuốc chống thải ghép thì đến ngày 13/07/1967 cũng chính Starzl đã thực hiện thành công ca ghép gan với thời gian sống thêm sau mổ là 16 tháng. Đến nay, 59 năm kể từ ca ghép gan đầu tiên, phẫu thuật ghép gan đã có những bước phát triển lớn như ghép gan từ người cho chết não, ghép gan từ người cho sống, chia gan để ghép, giúp điều trị cho rất nhiều trường hợp bệnh lý gan mật mà các phương pháp điều trị khác không có kết quả. Số lượng BN ghép gan ngày càng tăng, tính đến năm 2019 có khoảng hơn 360000 ca ghép gan đã được thực hiện trên thế giới1. Hiểu biết về hệ thống gan mật tụy ngày càng được nâng cao, các công cụ hỗ trợ hiện đại mới cùng với sự ra đời của các thế hệ thuốc chống thải ghép mới giúp kết quả điều trị sau ghép gan ngày càng được cải thiện. Tỉ lệ sống sau 5 năm của nhóm ghép gan do nguyên nhân ung thư gan và xơ gan tăng dần. Chỉ định điều trị ghép gan cũng ngày càng được chuẩn hóa, cập nhật thường xuyên, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người được ghép. Tại Việt Nam, ca ghép gan đầu tiên được thực hiện vào tháng 01/2004 tại Bệnh viện 103 cho một BN nhi mắc teo đường mật bẩm sinh. Phẫu thuật ghép gan ở người lớn được thực hiện đầu tiên vào ngày 28/11/2007 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, ngày 21/05/2010 ca ghép gan toàn bộ từ người cho chết não được thực hiện đầu tiên cũng tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Số ca ghép gan cũng tăng dần theo từng năm. Tính đến hết tháng 12 năm 2021, có gần 400 ca ghép gan đã thực hiện tại Việt nam, với 98 ca bệnh được thực hiện tại Bệnh viện Việt Đức. Cho đến nay kiến thức và kĩ thuật ghép gan tại Việt Nam nói chung và tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức nói riêng ngày càng được hoàn thiện, kết quả điều trị sau phẫu thuật ghép gan ngày càng cải thiện tuy nhiên số lượng BN tăng và ghi nhân số lượng các biến chứng tăng, xuất hiện một số biến chứng mới mà các nghiên cứu trong nước trước đây chưa ghi nhận và ghi nhận có tỉ lệ tử vong trong giai đoạn sớm sau phẫu thuật. Đặt ra yêu cầu cần có nghiên cứu thống kê, hệ thống và phân tích sâu hơn về đặc điểm BN được ghép gan và các biến chứng sớm xảy ra sau ghép. Do vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật ghép gan tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2016-2021” với 2 mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân được phẫu thuật ghép gan. 2. Đánh giá kết quả sớm sau phẫu thuật ghép gan.
Định danh: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/4324
Bộ sưu tập: Luận văn bác sĩ nội trú

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
Luận văn NT Lê Quang Thắng 45 final (1).docx
  Tập tin giới hạn truy cập
1.88 MBMicrosoft Word XML
Luận văn NT Lê Quang Thắng 45 final.pdf
  Tập tin giới hạn truy cập
2 MBAdobe PDFbook.png
 Đăng nhập để xem toàn văn


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.