Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3872
Title: GIÁ TRỊ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ KHUẾCH TÁN SỨC CĂNG TRONG CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT U NGUYÊN BÀO THẦN KINH ĐỆM ĐA HÌNH THÁI VỚI DI CĂN NÃO ĐƠN Ổ
Authors: Nguyễn Hà, Vi
Advisor: Nguyễn Duy, Hùng
Keywords: khuếch tán sức căng
Issue Date: 24/10/2022
Abstract: U nguyên bào thần kinh đệm đa hình thái (Glioblastoma - GBM) và di căn não là những khối u não phổ biến nhất ở người trưởng thành. GBM chiếm tới 54% các khối u thần kinh đệm và 16% các khối u nội sọ, trong khi đó di căn não chiếm khoảng 20% các khối u nội sọ và khoảng 25% - 30% là các khối u đơn độc.1,2 GBM và di căn não có sự khác biệt lớn về bản chất khối u, giai đoạn lâm sàng, kế hoạch điều trị và tiên lượng nên việc chẩn đoán phân biệt hai loại u là rất quan trọng.3 Việc chẩn đoán di căn não ở những bệnh nhân có tổn thương đa ổ hoặc bệnh nhân có tiền sử bệnh lý ác tính trước đó sẽ tương đối dễ dàng bằng hình ảnh cộng hưởng từ thường quy. Tuy nhiên chẩn đoán phân biệt các khối di căn não đơn ổ với GBM rất khó khăn do cả hai đều có biểu hiện lâm sàng không đặc hiệu với dấu hiệu thần kinh khu trú, hội chứng tăng áp lực nội sọ. Hơn nữa, trên hình ảnh CHT thường quy cả hai tổn thương này đều biểu hiện là một khối có hoại tử trung tâm, ngấm thuốc dạng viền không đều, kèm phù não xung quanh.4 Những điểm tương đồng trên dẫn tới chẩn đoán sai trong 40% trường hợp.5 Trong những năm gần đây, các kỹ thuật cộng hưởng từ nâng cao như CHT khuếch tán (DWI - Diffusion weighted imaging), CHT phổ (MRS - Magnetic resonance spectroscopy), CHT tưới máu (PWI - Perfusion weighted imaging) đã được ứng dụng để xác định cụ thể đặc điểm khối u, bản chất, tính chất chuyển hóa và nguồn gốc khối u góp phần chẩn đoán phân biệt chính xác hơn hai loại u.6–8 Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng là một kỹ thuật giúp khảo sát sự khuếch tán bất đẳng hướng và cường độ khuếch tán của các phân tử nước trong sợi trục. Sự khuếch tán này được định lượng bằng các chỉ số như hệ số bất đẳng hướng FA (fractional anisotropy) và hệ số khuếch tán trung bình MD (mean diffusivity). Các hệ số trên bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi cấu trúc vi mô của mô não tổn thương do khối u. Một số tác giả sử dụng hệ số FA và MD để chẩn đoán phân biệt GBM và di căn não đơn ổ dựa trên đặc điểm về giải phẫu bệnh và chẩn đoán hình ảnh tại vùng u và vùng quanh u.4,9,10 Vùng quanh u của GBM bao gồm cả vùng phù vận mạch và thâm nhiễm tế bào u. Trong khi di căn não chỉ có phù vận mạch đơn thuần, mật độ tế bào và mạch máu thưa hơn nhu mô não lành.11 Ngoài ra, DTI còn giúp xác định sự thay đổi hình thái của bó sợi thần kinh gây ra bởi khối u giúp lập kế hoạch điều trị u não tránh làm tổn thương các bó sợi thần kinh. Trên thế giới đã có các nghiên cứu về vai trò của cộng hưởng từ khuếch tán sức căng trong chẩn đoán phân biệt GBM và di căn não đơn ổ tuy nhiên các kết quả vẫn chưa có sự thống nhất.12 Do hai loại u trên có phương pháp điều trị phẫu thuật, xạ trị và hóa chất khác nhau nên việc chẩn đoán phân biệt là rất quan trọng để đạt được kết quả điều trị tốt.3 Tại Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào ứng dụng cộng hưởng từ khuếch tán sức căng trong chẩn đoán phân biệt hai loại u trên.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3872
Appears in Collections:Luận văn bác sĩ nội trú

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
Nguyễn Hà Vi- BSNT.pdf
  Restricted Access
3.24 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read
Nguyễn Hà Vi - BSNT.docx
  Restricted Access
14.21 MBMicrosoft Word XML


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.