Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/985
Nhan đề: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HÓA XẠ TRỊ TIỀN PHẪU TRONG UNG THƯ TRỰC TRÀNG GIAI ĐOẠN T3-T4/N0
Tác giả: NGUYỄN, VĂN HUY
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn, Văn Hiếu
Năm xuất bản: 2020
Nhà xuất bản: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tóm tắt: Ung thư đại trực tràng (UTĐTT) là một trong những bệnh ung thư đường tiêu hóa thường gặp trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Theo GLOBOCAN năm 2018, toàn thế giới có 1.85 triệu trường hợp mắc mới chiếm 10,2% và 880 nghìn trường hợp tử vong chiếm 9,2%; đứng thứ 3 ở nam giới và đứng thứ 2 ở nữ trong số các bệnh ung thư. Xét chung cả hai giới, UTĐTT đứng thứ 4 về tỉ lệ mắc mới và tỉ lệ tử vong trong số các bệnh ung thư. Bệnh gặp nhiều ở các quốc gia: Australia, New Zealand theo sau là khu vực Tây Âu, Bắc Mỹ 1. Tại Việt Nam, UTĐTT đứng thứ 5 trong các loại ung thư với tỉ lệ mắc là 13,4/100.000 dân và đứng thứ 6 về tỉ lệ tử vong trong các bệnh ung thư thường gặp với tỉ lệ tử vong là 7,0/100.000 dân. Bệnh xu hướng ngày càng gia tăng1. Phẫu thuật là phương pháp điều trị triệt căn trong ung thư đại trực tràng. Tuy nhiên, tỉ lệ tái phát tại chỗ, tại vùng cao hơn ở bệnh nhân ung thư trực tràng2. Nhiều bệnh nhân đến khám bệnh và điều trị ở giai đoạn muộn, đã xâm lấn ra cơ quan kế cận dẫn đến khả năng phẫu thuật triệt căn ngay từ đầu gặp nhiều khó khăn và tỷ lệ bảo tồn cơ thắt thấp làm ảnh hưởng đến thời gian sống thêm cũng như chất lượng cuộc sống của người bệnh. Việc phối hợp các phương pháp trong điều trị đa mô thức đã được áp dụng trong ung thư trực tràng, trong đó nhiều nghiên cứu cho thấy hóa xạ trị tiền phẫu đem lại kết quả khả quan và được khuyến cáo hướng dẫn sử dụng trong thực hành lâm sàng nhằm cải thiện kiểm soát tại chỗ, tại vùng3 4 5. Điều trị kết hợp đồng thời Capecitabine với xạ trị trước mổ liều 45-50,4 Gy là một phương pháp đã được áp dụng điều trị bệnh nhân ung thư trực tràng trung bình, thấp giai đoạn tiến triển tại chỗ tại các trung tâm nghiên cứu và điều trị ung thư giúp hạ thấp giai đoạn, chuyển từ giai đoạn không mổ được sang mổ được, làm giảm tỉ lệ tái phát tại chỗ. Hiện nay, trên thế giới và một số trung tâm Ung bướu của Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu áp dụng phương pháp hóa xạ trị tiền phẫu cho kết quả tốt. Theo tác giả Elwanis và cs (2009), tỷ lệ hạ thấp giai đoạn bệnh sau hóa xạ trị là 74,4% 6. Ở Việt Nam, theo Phạm Cẩm Phương và cs (2012) tỷ lệ này là 46%7. Sự cải tiến trong kỹ thuật xạ trị đem lại hiệu quả cao và hạn chế tác dụng phụ. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào thực hiện trên đối tượng bệnh nhân giai đoạn T3-T4/N0. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá kết quả hóa xạ tiền phẫu trong ung thư trực tràng giai đoạn T3-T4/N0” với hai mục tiêu: 1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ung thư trực tràng trung bình, thấp giai đoạn tiến triển tại chỗ. 2. Đánh giá kết quả điều trị và một số tác dụng không mong muốn của phác đồ hóa xạ trị tiền phẫu cho nhóm bệnh nhân trên.
Định danh: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/985
Bộ sưu tập: Luận văn thạc sĩ

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
21THS0067.pdf
  Tập tin giới hạn truy cập
2.21 MBAdobe PDFHình minh họa
 Đăng nhập để xem toàn văn


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.