Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/852
Title: Nghiên cứu về phẫu thuật chửa ngoài tử cung tại Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An
Authors: CAO XUÂN, HÙNG
Advisor: PGS.TS Đặng Thị Minh, Nguyệt
Keywords: phẫu thuật chửa ngoài tử cung
Issue Date: 2019
Publisher: ĐH Y Hà Nội
Abstract: Chửa ngoài tử cung (CNTC) là một thách thức đối với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cộng đồng, không chỉ riêng ở nước nghèo mà ngay cả với những nước có nền Y học phát triển vì ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng và khả năng sinh sản của người phụ nữ. Trong những thập kỷ gần đây, tần suất chửa ngoài tử cung có xu hướng gia tăng ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Ở nước ta tần suất chửa ngoài tử cung có xu hướng gia tăng rõ rệt, năm 1991 theo Dương Thị Cương tỉ lệ CNTC dao động từ 0,25% - 0,35% [1]. Nhưng đến đầu thế kỷ XXI, theo nghiên cứu của Phan Viết Tâm tỷ lệ CNTC tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương trong 2 năm 1999 - 2000 là 2,26% [2]. Năm 2009 tỷ lệ CNTC tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương theo Thân Ngọc Bích là 9,4% [3]. Trên thế giới: tại Mỹ, theo Heather M tỷ lệ CNTC năm 1970 là 0,45%, năm 1992 là 1,92%, năm 2005 là 2% [4]. Tại Anh tỷ lệ CNTC từ 1966 - 1996 cũng tăng từ 0,3% lên 1,6%. Tại các nước đang phát triển theo Martin C. Sowter tỷ lệ CNTC (1980 - 2001) là 1- 2% [5]. Sự gia tăng tần suất bệnh được nhiều tác giả cho rằng có liên quan đến nhiều yếu tố như tiền sử nạo, hút thai, sử dụng các biện pháp tránh thai (dụng cụ tử cung, thuốc tránh thai), viêm nhiễm tiểu khung, phẫu thuật vùng tiểu khung, các phương pháp hỗ trợ sinh sản đều góp phần vào việc làm tăng tần suất CNTC. Những năm gần đây nhờ áp dụng siêu âm đầu dò âm đạo, định lượng βhCG huyết thanh, nội soi chẩn đoán nên CNTC ngày càng được chẩn đoán sớm giúp điều trị hiệu quả, thời gian nằm viện ngắn hơn và đặc biệt có thể lựa chọn nhiều phương pháp hơn như là điều trị nội khoa, phẫu thuật nội soi bảo tồn vòi tử cung, góp phần bảo vệ khả năng sinh sản của người phụ nữ. Tỉnh Nghệ An là thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, có diện tích 16.487 km2, dân số gần 3,2 triệu người, trong đó hai phần ba là trung du miền núi đi lại khó khăn. Sự hiểu biết người dân về chăm sóc sức khỏe còn hạn chế, nhiều trường hợp chửa ngoài tử cung vào viện đã vỡ ngập máu ổ bụng đe dọa tính mạng bệnh nhân. Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An là bệnh viện đa khoa hạng I với quy mô 1500 giường bệnh. Khoa sản với hơn 120 giường bệnh tiếp nhận và điều trị các bệnh nhân trong và ngoài tỉnh. Cùng với sự phát triển của cả nước, trong thời gian qua việc chẩn đoán và điều trị CNTC có nhiều tiến bộ: siêu âm đầu dò âm đạo, định lượng βhCG. Phẫu thuật nội soi chẩn đoán, xử trí được thực hiện từ năm 2002 và đã có những bước phát triển nhất định. Tuy nhiên điều trị chủ yếu là phẫu thuật cắt vòi trứng triệt để, ít có phẫu thuật bảo tồn và điều trị nội khoa. Cho đến nay cả nước có rất nhiều nghiên cứu về chửa ngoài tử cung nhưng tại tỉnh Nghệ An chưa có một đề tài nghiên cứu đầy đủ về phẫu thuật CNTC. Nhằm nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị CNTC phù hợp với tình hình thực tế tại tỉnh Nghệ An
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/852
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
CAO XUAN HUNG_SAN.docx
  Restricted Access
347.15 kBMicrosoft Word XML


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.