Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/847
Title: Đánh giá kết quả hóa trị vinorelbine kết hợp trastuzumab trong ung thư vú di căn có HER2 dương tính tại Bệnh viện K
Authors: VŨ THỊ, TRANG
Advisor: TS. Lê Thanh, Đức
Keywords: kết quả hóa trị vinorelbine kết hợp trastuzumab trong ung thư vú di căn có HER2
Issue Date: 2019
Publisher: ĐH Y Hà Nội
Abstract: Ung thư vú (UTV) là loại ung thư (UT) phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới và là một trong những nguyên nhân gây tử vong do ung thư nhiều nhất ở phụ nữ. Theo GLOBOCAN 2018, trên toàn thế giới có khoảng 2.088.849 ca mới mắc, và 626.679 ca tử vong vì UTV (chiếm 11,6% tổng số bệnh nhân bị UT xếp thứ 2 ở cả hai giới sau ung thư phổi và đứng thứ 5 trong số các nguyên nhân tử vong do UT sau phổi, đại trực tràng, dạ dầy và gan), [1]. Tại Việt Nam, theo số liệu thống kê năm 2018 có 15.229 phụ nữ mới mắc UTV. Trong đó có 6.103 người tử vong do UTV [1]. Thụ thể yếu tố phát triển biểu mô ở người HER2 là một thụ thể tyrosine kinase, khuyếch đại gen ERBB2 (gen mã hóa protein HER2), xuất hiện trong khoảng 15-20% bệnh nhân UTV [2]. Khi gen ERBB2 bị khuyếch đại, thụ thể HER2 bộc lộ quá mức dẫn đến thúc đẩy quá trình phát triển tế bào, ức chế quá trình chết theo chương trình và tăng cường quá trình sinh mạch của khối u [3]. Như vậy HER2 dương tính liên quan đến bệnh có tiên lượng xấu và là yếu tố quyết định đến điều trị đích với các thuốc kháng thụ thể yếu tố phát triển biểu mô này [4],[5],[6]. Trastuzumab là kháng thể đơn dòng tái tổ hợp ở người gắn trực tiếp với vùng ngoại bào của protein HER2. Sự gắn kết này tạo nên phức hợp kháng nguyên-kháng thể hoạt hóa quá trình gây độc qua trung gian tế bào phụ thuộc kháng thể qua đó tiêu diệt tế bào ung thư [7]. Trastuzumab đã được FDA chứng nhận trong điều trị bổ trợ, tân bổ trợ cũng như trong điều trị UTV giai đoạn muộn, tái phát di căn. Việc sử dụng trastuzumab trong điều trị UTV tái phát di căn (TPDC) có HER2 dương tính đạt được kết quả đáng khích lệ. Các nghiên cứu đều khẳng định vai trò của trastuzumab trong việc làm tăng thời gian sống thêm bệnh không tiến triển là 7,4 tháng cao hơn có ý nghĩa so với nhóm không được điều trị bằng trastuzumab là 4,6 tháng (p<0,001). Thời gian sống toàn bộ ở 2 nhóm tương ứng là 25,1 tháng và 20,3 tháng (với p=0,046). Như vậy trastuzumab không chỉ cải thiện thời gian sống không tiến triển mà còn cải thiện cả thời gian sống toàn bộ ở bệnh nhân UTV TPDC có HER2 dương tính [41]. Trastuzumab phối hợp với taxan được coi là phác đồ chuẩn trong việc sử dụng đa hóa chất có thuốc đích với đối tượng UTV TPDC. Nghiên cứu HERNATA so sánh giữa 2 phác đồ phối hợp trastuzumab với docetaxel và trastuzumab với vinorelbine cho thấy thời gian đến khi bệnh tiến triển và thời gian sống thêm toàn bộ không có sự khác biệt ở 2 nhóm. Trong khi đó tỷ lệ bệnh nhân bị gián đoạn do độc tính ở 2 nhóm lần lượt là 20,1% và 6,5% với p<0,001. Các độc tính như hạ bạch cầu độ 3, 4, sốt hạ bạch cầu, nhiễm trùng, bệnh thần kinh, rối loạn móng và phù nề gặp nhiều hơn ở nhóm phối hợp với docetaxel. Như vậy có thể xem xét phối hợp vinorelbine với trastuzumab như một điều trị cho UTV TPDC [55]. Trastuzumab đã được đưa vào Việt Nam từ năm 2006, nhưng trên thực tế số lượng bệnh nhân được điều trị với trastuzumab còn không nhiều do giá thành thuốc cao, liên quan đến độc tính tim mạch. Phác đồ phối hợp vinorelbine với trastuzumab đã được đưa vào trong điều trị UTV TPDC nhưng chưa có nhiều nghiên cứu về kết quả cũng như độc tính của phác đồ này
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/847
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
VŨ THỊ TRANG _UTHU.docx
  Restricted Access
2.63 MBMicrosoft Word XML


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.