Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/842
Nhan đề: Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tác dụng phụ của Methotrxate liều cao trong điều trị Sarcoma xương tại bệnh viện K
Tác giả: TRẦN TUYẾT THANH, HẢI
Người hướng dẫn: TS. Phạm Thị Việt, Hương
Từ khoá: bệnh nhân sarcoma xương tại bệnh viện K
Năm xuất bản: 2019
Nhà xuất bản: ĐH Y Hà Nội
Tóm tắt: Bệnh sarcoma xương (osteosarcoma) là ung thư mô liên kết tạo ra chất tạo xương, có nguồn gốc từ tế bào gốc tạo xương. Sarcoma xương là một trong ba dạng hay gặp nhất trong ung thư xương nguyên phát, chiếm tỷ lệ 35% [1] và thường gặp ở trẻ em và người lớn trẻ tuổi. Tại Việt Nam, sarcoma xương chiếm 5% trong tổng số các ung thư trẻ em [2], [3]. Trước những năm 1970, phương pháp điều trị chính của sarcoma xương là phẫu thuật. Tỷ lệ sống thêm 5 năm chỉ đạt được khoảng 20%. Những tiến bộ đầu tiên vào những năm 1970, đạt được thông qua việc kết hợp phẫu thuật và hóa trị đa thuốc. Kết quả được cải thiện hơn nữa trong thập kỷ tiếp theo, nhưng kể từ đó, không có tiến bộ đáng kể nào đạt được về sống thêm, mặc dù nhiều bệnh nhân tiếp cận hóa trị liệu kết hợp [4]. Nhằm mục đích cải thiện kết quả trong sarcoma xương, nghiên cứu đa trung tâm, đa quốc gia EURAMOS-1 được thực hiện, bắt đầu vào năm 2005. Đây là nghiên cứu lớn nhất từ trước tới nay về sarcoma xương. 2260 bệnh nhân đã được đăng ký từ 326 trung tâm trên 17 quốc gia [4]. Nghiên cứu chia ra các nhánh khác nhau trong đó nhánh chỉ sử dụng phác đồ MAP gồm Methotrexate (MTX) liều cao, Doxorubicin và Cisplatin, cho kết quả sống thêm toàn bộ 6 năm 70%. Nhánh bổ sung chất điều hòa miễn dịch muramyl tripeptide (MTP) vào phác đồ MAP cho kết quả sống thêm toàn bộ 6 năm 78% nhưng MTP không được FDA phê duyệt, do đó MAP vẫn là phác đồ tiêu chuẩn để điều trị cho sarcoma xương giai đoạn khu trú. Tại Việt Nam nói chung và bệnh viện K từ trước năm 2000 chủ yếu là điều trị phẫu thuật đơn thuần kết quả sống thêm 5 năm là 19,9%. Sau năm 2000, phác đồ hóa chất thường được áp dụng cho sarcoma xương là EOI (Cisplatin và Doxorubicin). Nghiên cứu của Trần Văn Công hóa trị bổ trợ EOI bệnh nhân sarcoma xương sau phẫu thuật 2000 - 2009 kết quả thu được sống thêm 5 năm 62,6%. Tuy nhiên với phác đồ EOI tỷ lệ di căn sau điều trị còn tới 29,5% [5]. Trước 2017, bệnh viện K chưa có xét nghiệm định lượng MTX máu do đó chưa triển khai phác đồ MAP vì lo ngại độc tính cao từ liều MTX 12g/m2 của phác đồ. Từ đầu 2017, labo viện K là nơi duy nhất ở miền Bắc Việt Nam thực hiện được xét nghiệm này (tới tháng 10/2018 có thêm bệnh viện huyết học truyền máu trung ương). Do đó, phác đồ MAP bắt đầu được tiến hành trên bệnh nhân sarcoma xương giai đoạn khu trú. Cho tới nay, tại Việt Nam có rất ít các nghiên cứu về tác dụng phụ của MTX liều cao trong phác đồ MAP. Bởi vậy, chúng tôi mong muốn thực hiện đề tài này để từ đó đưa ra các khuyến cáo lâm sàng giúp việc thực hiện phác đồ này được tốt hơn.
Định danh: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/842
Bộ sưu tập: Luận văn thạc sĩ

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
LV TRẦN TUYẾT THANH HẢI_UTHU.docx
  Tập tin giới hạn truy cập
857.34 kBMicrosoft Word XML


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.