Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/823
Nhan đề: | Một số đặc điểm dịch tễ học và căn nguyên của bệnh viêm não ở trẻ em điều trị tại Bệnh viện Nhi Trung Ương, năm 2014 - 2018 |
Tác giả: | TẠ THỊ, THẢO |
Người hướng dẫn: | GS.TS. Nguyễn Trần, Hiển TS. Nguyễn Khắc, Thủy |
Từ khoá: | viêm não ở trẻ em |
Năm xuất bản: | 2019 |
Nhà xuất bản: | ĐH Y Hà Nội |
Tóm tắt: | Viêm não là một trong những bệnh nhiễm trùng hệ thần kinh thường gặp nhất ở trẻ em, với tỷ lệ tử vong và di chứng cao, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Đây là một tình trạng bệnh lý nặng nề đe dọa tình mạng bệnh nhân và là vấn đề sức khỏe nghiêm trọng của cộng đồng vì tỷ lệ mắc và tử vong còn cao. Tỷ lệ hiện mắc của viêm não vi rút (VNVR) trên quy mô toàn cầu rất khó để ước tính, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu, tỷ lệ mắc dao động từ 3,5 - 7,4 trường hợp trên 100000 bệnh nhân/ năm, tỷ lệ này ở trẻ em cao hơn ở người lớn, khoảng trên 16 trường hợp trên 100000 bệnh nhân/ năm [1]. Tác nhân gây viêm não hiện nay đã được xác định là do nhiễm vi rút, sự phân bố vi rút gây viêm não là khác nhau trên thế giới do tính chất địa lý và khí hậu. Trên thế giới đã ghi nhận có tới trên 100 loại vi rút gây viêm não, trong đó phổ biến là nhóm vi rút Arbo và Herpes simplex [2]. Trong những năm vừa qua, thế giới ghi nhận nhiều vụ dịch VNVR do các tác nhân khác nhau như dịch viêm não do vi rút Coxsackie B5 tại Trung Quốc năm 2011 [3], dịch VNNB tại Hàn Quốc năm 2010 [4], dịch viêm não do vi rút Tây sông Nile tại Ấn Độ năm 2011 [5],… Riêng viêm não Nhật Bản (VNNB) chiếm khoảng 68.000 trường hợp riêng tại khu vực Châu Á, tử vong 13.600 đến 20.800 trường hợp [6], tại Hoa Kỳ hay gặp viêm não do West Nile vi rút, ST Louis vi rút, viêm não do tick-born thường gặp ở các nước Châu Âu [7]. Một số loại vi rút gây viêm não có thể tản phát ở khắp nơi trên thế giới như viêm não do HSV1-2, EBV, CMV, HIV, … Ngoài ra còn gặp căn nguyên viêm não do vi khuẩn, ký sinh trùng hoặc nấm và một số ít các căn nguyên khác không phải nhiễm trùng gây viêm não như tác dụng phụ của thuốc, bệnh hệ thống dị ứng, bện tự miễn, bệnh ung thư, ngộ độc. Tuy nhiên tỷ lệ viêm 2 não xác định được căn nguyên trên thế giới còn thấp với tỷ lệ viêm não không rõ căn nguyên có nơi lên tới 85% [8]. Theo Davison thống kê 700 trường hợp viêm não tại Anh từ năm 1989 đến năm 1998 cho thấy tỷ lệ không tìm được căn nguyên là 60% [9], tác giả Glaser thống kê 334 trường hợp viêm não tại California từ năm 1998 đến năm 2000 có tới 62% trương hợp viêm não là không tìm được căn nguyên [10]. Một nghiên cứu tại Anh từ năm 2005 đến năm 2006 trên 203 trường hợp viêm não cho thấy 63% các trường hợp xác định được căn nguyên trong đó 42% viêm não được xác định do căn nguyên nhiễm trùng còn 21% trường hợp viêm não được xác định là do yếu tố tự miễn dịch [8]. Ở nước ta theo những nghiên cứu trước đây mỗi năm cả nước có từ 2500 đến 3000 trường hợp viêm não. Bệnh thường gặp ở trẻ em với với độ tuổi khác nhau tuỳ theo căn nguyên [11], trong đó vi rút là căn nguyên thường gặp nhất. Theo kết quả giám sát bệnh VNVR của hệ thống giám sát thường xuyên trong vòng hơn 5 năm trở lại đây, số mắc VNVR ở khu vực miền Bắc thường tập trung cao ở 5 tỉnh miền núi phía Bắc gồm: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lạng Sơn, Yên Bái. Bệnh viện Nhi Trung Ương là bệnh viện đầu ngành trong lĩnh vực về Nhi khoa. Tại khoa Truyền nhiễm, từ năm 2007 đến nay hàng năm có khoảng 500 đến 700 ca viêm não nhập viện và điều trị. Một số căn nguyên đã được xác định như vi rút viêm não Nhật Bản, HSV1-2, EV, Rubella, CMV, thủy đậu, quai bị, vi khuẩn, một vài loại kí sinh trùng, … Tuy nhiên, số ca viêm não chưa xác định căn nguyên vẫn chiếm tỷ lệ khá cao 70% [12]. Việc các định được căn nguyên viêm não sẽ giúp ích rất nhiều cho điều trị, tiên lượng và phòng bệnh, nhưng vì nhiều lí do, tỷ lệ chưa tìm được căn nguyên còn khá cao. Trong những năm gàn đây, nhờ việc phát triển các kỹ thuật sinh học phân tử hiện đại, tại bệnh viện Nhi Trung ương đã xác định được thêm một số căn nguyên viêm não do vi rút khác, thêm vào đó gần đây 3 đã có thuốc điều trị đặc hiệu một số chủng vi rút tỷ lệ tử vong cao và di chứng giảm đáng kể. Vì vậy nghiên cứu xác định căn nguyên viêm não và đặc điểm dịch tễ học theo căn nguyên là điều rất cần thiết giúp cho chẩn đoán sớm, làm cơ sở phát triển sinh phẩm chẩn đoán, nâng cao chất lượng chẩn đoán, phát triển và sử dụng vắc xin nhằm dự phòng, phát hiện sớm, điều trị kịp thời, hạn chế tỷ lệ tử vong, giảm di chứng, giảm gánh nặng cho gia đình và xã hội đồng thời giúp cho các nhà hoạch định chính sách xây dựng kế hoạch dự phòng hiệu quả hơn |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/823 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
TẠ THỊ THẢO CH YTCC.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 1.37 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.