Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/669
Nhan đề: | NGHIÊN CỨU XỬ TRÍ DỤNG CỤ TỬ CUNG LẠC CHỖ TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG |
Tác giả: | TRỊNH THĂNG, NGUYÊN |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. ĐẶNG THỊ MINH, NGUYỆT |
Từ khoá: | xử trí dụng cụ tử cung lạc chỗ |
Năm xuất bản: | 2018 |
Nhà xuất bản: | ĐH Y Hà Nội |
Tóm tắt: | DCTC là biện pháp tránh thai, lần đầu tiên được giới thiệu bởi Richter vào năm 1909 và được tiếp tục phát triển bởi Gräfenberg từ năm 1929, sau đó đã có một sự hồi sinh với kỷ nguyên hiện đại bắt đầu vào năm 1959 khi các DCTC nhựa dẻo được giới thiệu. Trong những năm qua, đã có nhiều thay đổi thiết kế để nâng cao hiệu quả, sự chấp nhận và an toàn [1]. Ở Việt Nam, DCTC là phương pháp tránh thai được sử dụng từ năm 1970, hiện nay vẫn là phương pháp phổ biến nhất, tỷ lệ sử dụng DCTC từ năm 2004 đến năm 2012 luôn duy trì ở mức trên 50%, năm 2004 đạt 55,9%, năm 2005 đạt 55,3%, năm 2006 đạt 55,4%, năm 2010 đạt 55,8%, năm 2012 đạt 51,9%, từ năm 2013 có xu hướng giảm, tuy nhiên vẫn ở mức cao, năm 2013 chiếm 49,6% và năm 2015 giảm xuống mức 47,9%. Đặc biệt là khu vực nông thôn và các vùng phụ cận tỷ lệ sử dụng DCTC còn cao lên tới 60-70% [2]. DCTC là phương pháp tránh thai tạm thời có nhiều ưu điểm như tính hiệu quả cao 95-96% phụ nữ / năm (chỉ số Pearl), hiệu quả còn cao hơn khi sử dụng DCTC có hoạt chất (kim loại hay nội tiết) đạt tới 99 % phụ nữ / năm, tỷ lệ tiếp tục sử dụng cao (70-90%), thời gian dùng kéo dài nhiều năm (5-10 năm), có thể tháo ra dễ dàng, ít tốn kém về mặt kinh tế cho cộng đồng và dễ dàng được chấp nhận bởi số đông ở nhiều khu vực kinh tế và địa lý khác nhau [2],[3]. Tuy nhiên, cũng như các phương pháp tránh thai khác, tránh thai bằng DCTC có những biến chứng như rong kinh, rong huyết, đau bụng, có thai, ra nhiều khí hư, viêm nhiễm đường sinh dục, biến chứng DCTC lạc chỗ, trong đó đặc biệt khi DCTC chui hoàn toàn qua tử cung vào nằm trong ổ bụng, lúc này DCTC có thể gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng như găm vào ruột, bàng quang v.v… gây ra những khó khăn trong xử trí cũng như tăng chi phí điều trị thậm chí có thể ảnh hưởng tới tính mạng bệnh nhân [4]. Đây là một biến chứng hiếm gặp và thường phát hiện muộn do tính chất âm thầm kín đáo nhiều khi không có triệu chứng, chỉ được phát hiện một cách tình cờ khi người phụ nữ bị đau bụng, đau lưng, có thai khi mang DCTC, tháo DCTC không thấy hoặc khi xảy ra các biến chứng như DCTC găm vào ruột, vào bàng quang v.v... khi đó nó đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng không thể lường trước được |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/669 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
bs trịnh nguyên thăng THS SAN .docx Tập tin giới hạn truy cập | 4.67 MB | Microsoft Word XML |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.