Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3506
Title: ĐÁNH GIÁ ĐÁP ỨNG HÓA TRỊ BỔ TRỢ TRƯỚC KẾT HỢP TRASTUZUMAB TRÊN BỆNH NHÂN UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN II, III
Authors: NGUYỄN, VIỆT CƯỜNG
Advisor: PHÙNG, THỊ HUYỀN
Keywords: Ung thư;8720108
Issue Date: 2020
Abstract: Ung thư vú (UTV) là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ nhiều nước trên thế giới và là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong số các nguyên nhân gây tử vong do ung thư ở nữ. Theo GLOBOCAN năm 2018, trên toàn thế giới có 2.089.000 ca mới mắc và 627.000 ca tử vong do UTV, đứng hàng thứ 5 trong số tử vong do ung thư1 . Ở Việt Nam, theo số liệu của Chương trình mục tiêu phòng chống ung thư năm 2010, có 12.533 trường hợp mới mắc UTV với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi là 29,9/100.000 dân2 . Kết quả điều trị bệnh đang từng bước được cải thiện nhờ những thành tựu đạt được trong sàng lọc, phát hiện sớm và điều trị, đặc biệt là các tiến bộ trong điều trị hệ thống bao gồm hóa chất, nội tiết và sinh học. Trong đó, điều trị hoá chất bổ trợ trước hay còn gọi là hoá chất tân bổ trợ là phương pháp sử dụng hoá chất trước phẫu thuật để làm giảm lượng tế bào u tại chỗ, tại vùng và cả các vi di căn xa. Kết quả là khối u và hạch tại chỗ tại vùng thoái lui, tạo điều kiện phẫu thuật dễ dàng hơn hoặc tăng khả năng phẫu thuật bảo tồn. Thụ thể yếu tố phát triển biểu bì ở người HER2/neu là một protein xuyên màng được quy định bởi gen ERBB2. Sự khuếch đại gen ERBB2 xuất hiện trong 20-25% bệnh nhân UTV, khi đó thụ thể HER2/neu bộc lộ quá mức dẫn đến thúc đẩy sự phát triển của tế bào, ức chế quá trình chết theo chương trình và tăng sinh mạch trong khối u3-5 . Trastuzumab là một kháng thể đơn dòng tái tổ hợp ở người gắn trực tiếp với vùng ngoại bào của HER2, tạo phức hợp kháng nguyên kháng thể hoạt hóa quá trình gây độc qua trung gian tế bào phụ thuộc kháng thể6 . Hiệu quả của trastuzumab khi phối hợp hóa chất trong điều trị bổ trợ UTV cũng như giai đoạn di căn đã được báo cáo trong một số nghiên cứu lớn như N9831, NSABP B-31, BCIRG 006, giúp tăng tỉ lệ sống thêm không bệnh, giảm tỉ lệ tử vong so với nhóm không điều trị trastuzumab7, 2 8 . Khi phối hợp với hóa chất điều trị bổ trợ trước phẫu thuật, trastuzumab cũng cho thấy kết quả đáng khích lệ về tỉ lệ đáp ứng mô bệnh học và thời gian sống thêm không bệnh. Trong thử nghiệm GETN(A)-1, 70 bệnh nhân UTV giai đoạn II, III có HER2 dương tính được điều trị bổ trợ trước phác đồ TCH (docetaxel, carboplatin, trastuzumab). Tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học (pCR) đạt trên 27 (39%) bệnh nhân, có 45 (64%) bệnh nhân được phẫu thuật bảo tồn. Độc tính giảm bạch cầu trung tính và giảm bạch cầu trung tính có sốt độ 3 và 4 chỉ gặp ở 2% số bệnh nhân, không có trường hợp nào có rối loạn chức năng tim có triệu chứng9 . Tỉ lệ pCR là một trong những tiêu chí hàng đầu khi đánh giá hiệu quả của điều trị bổ trợ trước. Một số nghiên cứu đã chứng minh tỉ lệ pCR có vai trò quan trọng trong tiên lượng sống thêm sau điều trị UTV10, 11 . Tại Việt Nam, trastuzumab được đưa vào sử dụng từ năm 2006 và ngày càng được sử dụng rộng rãi cho bệnh nhân UTV có HER2 dương tính. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu đánh giá vai trò của hóa trị kết hợp trastuzumab trong điều trị bổ trợ trước phẫu thuật UTV, đặc biệt là UTV giai đoạn II, III. Vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá đáp ứng hóa trị bổ trợ trước kết hợp trastuzumab trên bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III” với hai mục tiêu: 1. Đánh giá đáp ứng hóa trị bổ trợ trước phác đồ TCH và phác đồ AC TH trên bệnh nhân ung thư vú giai đoạn II, III. 2. Nhận xét một số tác dụng không mong muốn của hóa trị bổ trợ trước kết hợp với trastuzumab.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3506
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0591.pdf
  Restricted Access
1.54 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.