Please use this identifier to cite or link to this item:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3459
Title: | ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA PHẪU THUẬT GHÉP GIÁC MẠC NHÂN TẠO BOSTON MẪU 1 TRONG ĐIỀU TRỊ SẸO ĐỤC GIÁC MẠC |
Authors: | NGUYỄN, THỊ THANH NHUNG |
Advisor: | PGS.TS. PHẠM, NGỌC ĐÔNG |
Keywords: | Nhãn khoa;8720157 |
Issue Date: | 2020 |
Abstract: | Sẹo đục giác mạc là một trong những nguyên nhân gây mù lòa. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới năm 2012, trên toàn thế giới có khoảng 4,9 triệu người bị mù hai mắt do bệnh lý giác mạc, chiếm khoảng 12% trong tổng số người mù1,2 . Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra về tình hình mù lòa năm 2000 – 2002 ở 8 vùng sinh thái trong cả nước thì nguyên nhân gây mù do bệnh lý giác mạc chiếm 5% trong tổng số bệnh nhân mù, đứng thứ tư sau bệnh đục thủy tinh thể, glôcôm và bệnh lý đáy mắt khác3 . Mù lòa do sẹo đục giác mạc là bệnh lý có thể điều trị được bằng phẫu thuật ghép giác mạc. Phương pháp này đã đem lại ánh sáng cho rất nhiều người bị mù do bệnh giác mạc 4 . Tuy nhiên, với những trường hợp đã ghép giác mạc nhiều lần, tỷ lệ sống mảnh ghép sau 5 năm chỉ khoảng 28% đến 55% và sau ghép 10 năm chỉ còn 11%5,6 . Hơn nữa, ở những bệnh nhân sẹo đục giác mạc có nguy cơ thất bại cao như viêm giác mạc do Herpes, sẹo bỏng hóa chất, bỏng nhiệt do có nhiều tân mạch và tổn hại tế bào nguồn thì kết quả thị lực sau phẫu thuật kém, nhiều biến chứng và rất dễ thất bại 7 . Do đó, cần có những phương pháp khác để điều trị những trường hợp này. Giác mạc nhân tạo (GMNT) ra đời và phẫu thuật ghép GMNT được coi là lựa chọn cuối cùng để điều trị cho nhóm bệnh nhân này8 . Từ thế kỷ 19, nhiều mẫu GMNT đã được ứng dụng trong điều trị sẹo đục giác mạc nhưng kết quả còn nhiều hạn chế. Hiện nay, GMNT Boston mẫu 1 là mẫu giác mạc khá hoàn thiện và được áp dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia, đem lại kết quả khả quan9 . Tuy nhiên phương pháp này cũng có một số nhược điểm như giá thành cao, bệnh nhân có chỉ định ghép GMNT cần được lựa chọn và theo dõi chặt chẽ, tỷ lệ biến chứng sau mổ còn nhiều (tăng nhãn áp, nhuyễn giác mạc...). 2 Ở nước ta, năm 1980, ghép GMNT đã được áp dụng để điều trị hai bệnh nhân bỏng giác mạc, nhưng do kết quả không cao nên sau đó GMNT không được thực hiện nữa10. Từ năm 2014, GMNT Boston mẫu 1 đã được ghép cho một số bệnh nhân tại Bệnh viện Mắt Trung ương. Để đánh giá vai trò của GMNT Boston mẫu 1 trong điều trị sẹo đục giác mạc, chúng tôi thực hiện đề tài “Đánh giá hiệu quả của ghép GMNT Boston mẫu 1 trong điều trị sẹo đục giác mạc” với 2 mục tiêu: 1. Đánh giá hiệu quả của ghép GMNT Boston mẫu 1 trong điều trị sẹo đục giác mạc. 2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến kết quả điều trị sẹo đục giác mạc bằng phẫu thuật ghép GMNT Boston mẫu 1. |
URI: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3459 |
Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
2020THS0564.pdf Restricted Access | 1.94 MB | Adobe PDF | Sign in to read |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.