Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3375
Nhan đề: NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA X-QUANG CẮT LỚP TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ VÚ Ở BỆNH NHÂN CÓ VÚ ĐẶC HOẶC BẤT XỨNG KHU TRÚ
Tác giả: NGUYỄN THỊ THU, HÀ
Người hướng dẫn: PHẠM MINH, THÔNG
Từ khoá: Chẩn đoán hình ảnh
Năm xuất bản: 2021
Nhà xuất bản: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Tóm tắt: Ung thư vú (UTV) chiếm tỉ lệ mắc và tử vong cao nhất ở phụ nữ và đang dần trở thành gánh nặng bệnh tật, đặc biệt ở các nước đang phát triển 1. Trên thế giới năm 2020 có khoảng 2,26 triệu ca UTV mới mắc (chiếm 11,7% các bệnh ung thư) và có 684 996 ca tử vong. UTV được xếp hạng đầu tiên về tỷ lệ ung thư trên nữ giới ở đại đa số các quốc gia (theo GLOBOCAN năm 2018)2. Tại Việt Nam, năm 2012, số ca mắc ung thư vú là 11.067 ca trên tổng số 89,8 triệu người với tỉ lệ mới mắc là 23% 3. Việc chẩn đoán UTV sớm sẽ làm thay đổi bệnh sử tự nhiên, giảm tỉ lệ tử vong, chi phí điều trị và cải thiện chất lượng cuộc sống của người bệnh. Chụp X quang tuyến vú kĩ thuật số (DM) là một phương pháp đầu tay với ý nghĩa như vậy. Tuy nhiên cũng gặp một số hạn chế trong đánh giá tổn thương đó là: mật độ nhu mô tuyến vú, týp mô bệnh học của khối u và kích thước khối u4. Mật độ nhu mô tuyến vú phụ thuộc vào nhiều thành phần như: ống tuyến tiết sữa, ống dẫn sữa, mô mỡ và mô liên kết. “Hệ thống dữ liệu và báo cáo kết quả hình ảnh tuyến vú” (BI-RADS) năm 2013 phân chia mật độ nhu mô vú thành 4 nhóm, trong đó vùng sợ tuyến đặc sẽ tăng đậm độ trên phim chụp5. Bởi vì khối ung thư tuyến vú thường có hình ảnh tăng đậm độ trên X-quang 6 nên sự tương phản giữa khối u ở các trường hợp vú đặc sẽ giảm gây những khó khăn trong việc phát hiện những khối u. Điều này cũng tương tự ở những vùng có bất xứng tuyến vú. Bất xứng tuyến vú thường là lành tính, nhưng cũng là một dấu hiệu gợi ý tổn thương ung thư7. Đây là thuật ngữ dùng trên phim chụp X quang, được chia thành 4 loại bao gồm: bất xứng, bất xứng toàn bộ, bất xứng tiến triển và bất xứng khu trú. Trong đó, bất xứng khu trú được quan tâm hơn cả do thường gặp tổn thương thật sự, được định nghĩa là là vùng mô tuyến không cân đối có hình dạng tương tự xuất hiện trên cả hai tư thế chụp, tổn thương này thường là một bất thường thực sự hơn là do chồng hình nhu mô tuyến5. Một số nghiên cứu chỉ ra, ung thư vú được tìm thấy trong khoảng 0-14% các trường hợp bất xứng tuyến vú8. Tổn thương ẩn dưới mô vú đặc hoặc vùng bất xứng khu trú có thể không đánh giá được hoặc phân loại không đúng trên X-quang tuyến vú. Siêu âm và MRI có thể dùng thay thế trong trường hợp này. Tuy nhiên, siêu âm phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người làm, tỷ lệ đồng thuận đối với các tổn thương nhỏ, nghi ngờ ác tính ở mức độ thấp9, trong khi MRI còn khá đắt và tốn thời gian. Những điều này có thể khắc phục bởi một kĩ thuật chẩn đoán hình ảnh mới - chụp Xquang cắt lớp tuyến vú (DBT). DBT làm tăng độ phân giải cấu trúc, bộc lộ rõ hơn những tổn thương bị chồng lấp mà không phát hiện được trên DM, đặc biệt ý nghĩa với các bệnh nhân có vú đặc và bất xứng khu trú 10,11. Có nhiều nghiên cứu về đặc điểm hình ảnh và vai trò của X-quang cắt lớp tuyến vú đặc biệt trong ung thư vú ở Việt Nam, cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về các trường hợp khó chẩn đoán như tuyến vú đặc hay bất xứng khu trú. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu vai trò của X-quang cắt lớp trong chẩn đoán ung thư vú ở bệnh nhân có vú đặc hoặc bất xứng khu trú” với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm hình ảnh ung thư vú trên X-quang cắt lớp ở bệnh nhân có vú đặc hoặc bất xứng khu trú. 2. Giá trị chẩn đoán của X-quang cắt lớp ở bệnh nhân có vú đặc hoặc bất xứng khu trú.
Định danh: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3375
Bộ sưu tập: Luận văn thạc sĩ

Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin Mô tả Kích thước Định dạng  
21THS1078.pdf
  Tập tin giới hạn truy cập
3.4 MBAdobe PDFbook.png
 Đăng nhập để xem toàn văn


Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.