Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3209
Nhan đề: | NGHIÊN CứU LÂM SàNG, CậN LÂM SàNG Và MộT Số PHƯƠNG PHáP CAN THIệP ĐIềU TRị DíNH BUồNG Tử CUNG QUA SOI BUồNG Tử CUNG TạI BệNH VIệN PHụ SảN Hà NộI |
Tác giả: | PHẠM THỊ KIM, YẾN |
Người hướng dẫn: | Lê Thị Anh, Đào |
Từ khoá: | Sản phụ khoa |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Tóm tắt: | Dính buồng tử cung là một tình trạng khi những dải xơ dính hình thành trong buồng tử cung, nơi vốn là một khoang rỗng. Năm 1950, J.Asherman là người đầu tiên đã công bố công trình tổng quan về những yếu tố thuận lợi gây bệnh, bệnh cảnh lâm sàng, hình ảnh X- quang cũng như những phương pháp điều trị của dính buồng tử cung. Do giá trị của công trình đã diễn giải được những nét cơ bản của vấn đề, mà hội chứng dính buồng tử cung thứ phát sau can thiệp vào buồng tử cung đã mang tên hội chứng Ahserman1. Dính buồng tử cung do nhiều nguyên nhân gây nên, trong đó dính buồng tử cung do những chấn thương hay can thiệp vào buồng tử cung là hay gặp nhất. Dính buồng tử cung thường gặp sau những can thiệp vào buồng tử cung có liên quan đến thai nghén như nạo hút thai, hút buồng tử cung sau sảy thai, nạo sót rau sau đẻ… Salzani và cộng sự tìm thấy tỉ lệ dính buồng tử cung sau nạo phá thai lên tới 37,6%2 Ngoài ra cũng có một tỉ lệ dính buồng tử cung gây ra bởi những can thiệp ngoài thời kì thai nghén như hút buồng tử cung khi ra máu bất thường, bóc u xơ tử cung, cắt polyp thân tử cuung hay do viêm nhiễm niêm mạc tử cung, lao sinh dục. Theo các tác giả nước ngoài, trong các nguyên nhân vô sinh được điều trị bằng soi buồng tử cung, tỉ lệ dính buồng tử cung từ 11,8%3 đến 18% 4. Tại Việt Nam, tỉ lệ này theo nghiên cứu của Đặng thị Hồng Thiện là 15% 5. Dính buồng tử cung tuy không phải là vấn đề trầm trọng tới tính mạng, nhưng cũng dẫn tới nhiều ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống, gây ra nhiều hậu quả tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ như vô kinh, kinh ít và vô sinh. Trong quần thể vô sinh, Baradwan nhận thấy tỉ lệ mắc dính buồng tử cung là 4,6%6. Việc chẩn đoán và điều trị dính buồng tử cung vẫn còn chưa được quan tâm một cách đúng mức, bởi dính buồng tử cung tiến triển một cách thầm lặng trên lâm sàng, và việc chẩn đoán khó khăn do đòi hỏi cần có những phương pháp chẩn đoán xâm lấn vào buồng tử cung. Người phụ nữ chỉ đến gặp bác sĩ khi đã có những ảnh hưởng rõ rệt tới sức khỏe sinh sản của họ. Soi buồng tử cung là một trong những lựa chọn đầu tay để chẩn đoán và điều trị dính buồng tử cung, được áp dụng tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1988 và phát triển mạnh từ năm 2004 tới nay, chỉ được thực hiện tại các bệnh viên chuyên khoa đầu ngành về sản phụ khoa, chưa có những nghiên cứu tiến cứu về dính buồng tử cung độc lập với các yếu tố vô sinh khác. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên cứu: “Nghiên cứu lâm sàng, cận lâm sàng và một số phương pháp can thiệp điều trị dính buồng tử cung qua soi buồng tử cung tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội” với 2 mục tiêu sau đây: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh nhân dính buồng tử cung điều trị tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. 2. Nhận xét một số phương pháp điều trị dính buồng tử cung qua soi buồng tử cung tại bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3209 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
0849. LV - KIM YẾN - SAU BAO VE.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 2.13 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.