Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3167
Nhan đề: | ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ CỦA LỌC RỬA TINH TRÙNG BẰNG PHƯƠNG PHÁP THANG NỒNG ĐỘ ĐẾN KẾT QUẢ CÓ THAI TỪ THỤ TINH NHÂN TẠO TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Tác giả: | NGUYỄN THỊ THU, HIỀN |
Người hướng dẫn: | NGUYỄN KHANG, SƠN |
Từ khoá: | Mô Phôi Y học |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Tóm tắt: | Vô sinh (VS) hiện nay là vấn đề không còn mới mẻ nhưng lại là vấn đề rất được quan tâm trong xã hội. Tỷ lệ vô sinh đang có xu hướng ngày càng tăng và diễn biến phức tạp tại Việt Nam, nó trở thành “gánh nặng’’ của toàn thế giới không chỉ riêng nước ta. Tỷ lệ vô sinh thay đổi theo từng nước từ 10 – 18%.1 Tại Việt Nam, theo ghi nhận của một số y văn, vô sinh có chiều hướng gia tăng và gây nên bởi nhiều nguyên nhân. Theo Nguyễn Khắc Liêu (1999), tỷ lệ vô sinh ở Việt Nam là 13%, vô sinh do nam chiếm tỷ lệ tương đương với các nguyên nhân vô sinh do nữ.2 Theo nghiên cứu của Nguyễn Viết Tiến và cộng sự năm 2009 tại 8 vùng sinh thái trên cả nước cho thấy tỷ lệ vô sinh chung trên phạm vi toàn quốc ở mức trung bình so với các quốc gia khác chiếm 7,7% các cặp vợ chồng 15 – 49 tuổi, trong đó vô sinh nguyên phát chiếm 3,9%; và vô sinh thứ phát chiếm 3,8%. Trong đó, có khoảng 50% cặp vợ chồng vô sinh ở độ tuổi dưới 30.3 Điều này cho thấy tình hình vô sinh đang có xu hướng trẻ hóa. Để giải quyết được vấn đề trên thì cần phải có các biện pháp hỗ trợ sinh sản. Một trong những phương pháp phổ biến hiện nay của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đó chính là phương pháp thụ tinh nhân tạo (Intrauterin insemination – IUI) hay còn gọi là bơm tinh trùng (TT) vào buồng tử cung. TT trước khi bơm vào buồng tử cung phải được tiến hành lọc rửa và kỹ thuật này hiện giờ đã phổ biến rộng rãi tại các cơ sở y tế có chuyên môn. Tại trung tâm hỗ trợ sinh sản (HTSS) – Bệnh viện Đại học Y Hà Nội thực hiện tất cả những kỹ thuật liên quan đến hỗ trợ sinh sản trong đó IUI chỉ là một thủ thuật tương đối đơn giản được triển khai từ năm 2012 nhưng nó lại tỏ ra khá hiệu quả với những trường hợp chỉ định đúng. Trong phương pháp IUI thì kỹ thuật lọc rửa TT để có được mẫu TT tốt là một trong những yếu tố quyết định sự thành công. Chất lượng TT trước và sau lọc rửa có liên quan trực tiếp đến khả năng có thai. Nhưng như thế nào là một mẫu TT tốt và hiệu quả ra làm sao thì điều đó cần phải được khảo sát. Tại trung tâm đã có những khảo sát bước đầu về vấn đề này, đó là bài báo của Lê Trọng Tuấn và cộng sự (2013), tiếp theo đó là nghiên cứu hồi cứu của Bùi Thị Thanh Tuyền (2016).4,5 Tuy nhiên, qua mỗi giai đoạn, mỗi thời điểm cần có những đánh giá, so sánh để xem xét sự thay đổi nhằm đưa đến những cải tiến cho phương pháp để đem đến hiệu quả điều trị cho bệnh nhân. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tiến cứu về đề tài: “Đánh giá hiệu quả của lọc rửa tinh trùng bằng phương pháp thang nồng độ đến kết quả có thai từ thụ tinh nhân tạo tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội” phục vụ cho hai mục tiêu: 1. Đánh giá hiệu quả lọc rửa tinh trùng cho phương pháp thụ tinh nhân tạo (IUI) tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội 2. Đánh giá kết quả có thai của IUI và tìm hiểu mối liên quan từ các thông số tinh dịch. Kết quả nghiên cứu sẽ góp phần hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn và là bức tranh tổng thể về kỹ thuật IUI trong công cuộc hỗ trợ sinh sản, từ đó sẽ làm tăng hiệu quả điều trị và đơn giản hóa quy trình cho các trường hợp hiếm muộn VS. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3167 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
0808. Hiền LUANVAN SAU BV.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 2.51 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.