Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2798
Nhan đề: | Kết quả phẫu thuật Miles trong điều trị UTTT thấp tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Bạch Mai |
Tác giả: | NGUYỄN, HOÀNG QUÂN |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. Trần, Hiếu Học TS. Vũ, Đức Long |
Từ khoá: | Ngoại khoa |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | Đại học Y Hà Nội |
Tóm tắt: | Ung thư trực tràng (UTTT) là ung thư thường gặp của đường tiêu hóa chỉ đứng sau ung thư đại tràng. Tỷ lệ mắc bệnh ngày càng cao và có xu hướng trẻ hóa. Theo hiệp hội ung thư Mỹ năm 2009 ước tính có khoảng 40.000 trường hợp mới mắc và 17.000 ca tử vong do UTTT1. Tại Việt Nam ung thư đại trực tràng (UTĐTT) đứng thứ hai trong các ung thư đường tiêu hóa, tỷ lệ mắc UTĐTT theo nhiều tài liệu là khoảng 7,5/100.000 dân2. Bệnh UTĐTT đứng hàng thứ ba trong các nguyên nhân gây tử vong ở các nước phát triển. Tuy nhiên UTĐTT vẫn được coi là bệnh có tiên lượng tốt hơn các ung thư khác nói chung3. UTTT nếu được chẩn đoán và điều trị sớm thì tỷ lệ sống trên 5 năm cao. Trong vòng 20 năm trở lại đây nhờ các tiến bộ về khoa học kỹ thuật giúp chẩn đoán và phát hiện sớm hơn, đánh giá giai đoạn bệnh chính xác hơn dựa vào chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ, siêu âm nội soi, tiến bộ về gây mê, tiến bộ kỹ thuật mổ, mổ nội soi, máy nối, điều trị bổ trợ tia xạ, hóa chất, miễn dịch làm cho kết quả điều trị bệnh ngày càng được cải thiện. Trong điều trị ung thư trực tràng, phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính, các phương pháp khác có vai trò bổ trợ. Những khối u trực tràng ở đoạn thấp ngay ngõ ra của ống tiêu hoá và liên quan với cơ quan tiết niệu và sinh dục xung quanh nên phẫu thuật có nhiều phức tạp. Chọn lựa phẫu thuật là điều cân nhắc và thận trong làm sao đảm bảo lấy hết tổ chức ung thư và hạn chế tái phát là mục tiêu hàng đầu của người thầy thuốc. Năm 1908, W. Ernest Miles là người mô tả và thực hiện phẫu thuật cắt cụt trực tràng. Trong phẫu thuật này, trực tràng được cắt bỏ qua 2 đường bụng và tầng sinh môn: đoạn đại tràng Sigma, trực tràng, hậu môn, các cơ thắt và cơ nâng hậu môn được cắt và đưa ra qua đường tầng sinh môn, kết hợp với nạo vét hạch rộng rãi. Phẫu thuật này hạn chế được tái phát, di căn và tăng thêm thời gian sống cho bệnh nhân. Phẫu thuật nội soi đại trực tràng được Jacobs bắt đầu năm 1991. Trải qua gần 3 thập kỷ đến nay phẫu thuật nội soi đã được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong điều trị ung thư đại trực tràng. Phẫu thuật nội soi cắt cụt trực tràng đường bụng tầng sinh môn đã từng bước khẳng định tính ưu việt của nó: thì nội soi tránh được đường mở bụng dài, phẫu thuật nội soi có thuận lợi khi tiến hành cắt toàn bộ mạc treo trực tràng vì nó giúp phẫu thuật viên quan sát rõ hơn cấu trúc giải phẫu mạch máu vùng tiểu khung, bảo tổn thần kinh tiết niệu sinh dục, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống sau mổ của bệnh nhân ung thư trực tràng. Bệnh nhân đau sau mổ ít hơn, hồi phục nhanh hơn, nguy cơ nhiễm trùng vết mổ ít hơn, mang lại giá trị thẩm mỹ hơn mổ mở truyền thống. Xuất phát từ tình hình thực tế điều trị ung thư trực tràng thấp bằng phẫu thuật Miles tại Bệnh viện Bạch Mai, chúng tôi thực hiện đề tài “Kết quả phẫu thuật Miles trong điều trị UTTT thấp tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Bạch Mai” nhằm 2 mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân UTTT thấp được phẫu thuật Miles tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Bạch Mai năm 2015 – 2019. 2. Đánh giá kết quả của phẫu thuật Miles trong điều trị UTTT thấp tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Bạch Mai năm 2015 – 2019 |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2798 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
2020THS0965.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 2.04 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.