Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2732
Nhan đề: | NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ VÀ KẾT QUẢ SẢN KHOA Ở NHỮNG THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ |
Tác giả: | TRƯƠNG, MINH PHƯƠNG |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. NGUYỄN, DUY ÁNH |
Từ khoá: | Sản phụ khoa |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | Đại học Y Hà Nội |
Tóm tắt: | Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh mang tính chất xã hội, trong những năm gần đây đang có xu hướng tăng lên rõ rệt, chiếm tỷ lệ khá cao tại các nước phát triển. Cùng với sự gia tăng của ĐTĐ, đái tháo đường thai kỳ (ĐTĐTK) cũng không ngừng gia tăng. Đái tháo đường thai kỳ được định nghĩa là những trường hợp được phát hiện đường huyết cao lần đầu tiên trong thời gian mang thai, không loại trừ khả năng bị ĐTĐ từ trước mà chưa được chẩn đoán. Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ĐTĐTK “là tình trạng rối loạn dung nạp glucose ở bất kỳ mức độ nào, khởi phát hoặc được phát hiện lần đầu tiên trong lúc mang thai”1. Ngày nay, ĐTĐTK đang có chiều hướng gia tăng do chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, sự gia tăng tỷ lệ béo phì, ĐTĐ type 2 ở người trẻ và đề kháng insulin trong hội chứng buồng trứng đa nang. Ước tính có khoảng 5% phụ nữ mang thai bị bệnh ĐTĐ thai kỳ và thường gặp sau 3 tháng giữa của thai kỳ. Đái tháo đường thai kỳ thường xuất hiện vào khoảng sau tuần thứ 24 của thai kỳ, khi rau thai bắt đầu sản xuất một lượng lớn các hormon gây kháng insulin. ĐTĐTK nếu không được chẩn đoán và điều trị sẽ gây nhiều tai biến cho cả mẹ và con. Về phía mẹ, ĐTĐ gây nhiều biến chứng tim mạch, là nguy cơ lớn về bệnh tật và tử vong trong suốt quá trình mang thai. Nhiễm toan ceton thường xảy ra vào 6 tháng cuối của thai kỳ có thể dẫn đến tử vong mẹ, chết thai cũng như tử vong chu sinh. Về phía thai, ĐTĐ có thể dẫn đến những dị tật lớn ảnh hưởng đến tương lai của trẻ, như tổn thương ống thần kinh, dị tật ở tim, đẻ khó do thai to, đa ối, sinh non, thai kém phát triển… Một số nguy cơ khác cho thai nhi có thể gặp do tăng insulin như: hội chứng suy hô hấp, hạ glucose huyết, tăng billirubin máu, hạ calci máu, kém ăn; khi trẻ lớn hơn sẽ có nguy cơ béo phì và ĐTĐ type II. Khoảng 30 – 50% phụ nữ mắc ĐTĐTK sẽ tái phát mắc ĐTĐTK ở lần mang thai tiếp theo2. 20 - 50% bà mẹ mắc ĐTĐTK sẽ chuyển thành ĐTĐ type II trong 5-10 năm sau khi sinh, nguy cơ mắc ĐTĐ type II tăng 7,4 lần3. Theo khuyến cáo của Hội nghị Quốc tế lần thứ 4 về ĐTĐTK, những phụ nữ có nguy cơ cao cần được xét nghiệm sàng lọc ĐTĐTK trong lần khám thai đầu tiên 4. Việt Nam là nước nằm trong vùng có tần suất cao mắc ĐTĐTK. Các khuyến cáo trong nước và quốc tế đều cho rằng việc tầm soát ĐTĐTK ở tuần 24 đến tuần 28 của thai kỳ có ý nghĩa rất lớn trong chẩn đoán cũng như điều trị ĐTĐTK, mang lại kết quả thai kỳ tốt hơn cho cả sản phụ và trẻ sơ sinh. Các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ngày càng tăng, tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào yếu tố vùng miền, phân bố dân cư, thói quen ăn uống, sinh hoạt chứ chưa có một cái nhìn khái quát về bệnh tại một cơ sở sản khoa, nơi có lượng sản phụ quản lý thai kỳ lớn như Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. Vì thế chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu thực trạng đái tháo đường thai kỳ và kết quả sản khoa ở những thai phụ đái tháo đường thai kỳ” với hai mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ và một số yếu tố liên quan đến đái tháo đường thai kỳ tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. 2. Nhận xét kết quả sản khoa ở nhóm thai phụ đái tháo đường thai kỳ tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2732 |
Bộ sưu tập: | Luận văn chuyên khoa 2 |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
2020CKII0024.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 1.59 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.