Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2625
Nhan đề: | Đánh giá kết quả điều trị ghép gan tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2010-2018 |
Tác giả: | TRẦN, HÀ PHƯƠNG |
Người hướng dẫn: | PGS.TS. Nguyễn, Tiến Quyết |
Từ khoá: | Ngoại – Gan mật |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | Đại học Y Hà Nội |
Tóm tắt: | Ghép gan là một trong những phương pháp điều trị mới, một thành tựu to lớn của y học trong thế kỉ 20, 21. Phẫu thuật ghép gan lần đầu tiên được thực hiện trên chó thực hiện bởi C. Stuart Welch tại trường đại học Albany (Nework – Mỹ) vào năm 1954. Đến năm 1958 mô hình ghép gan toàn bộ đúng vị trí đã được mô tả bởi Jack Canon - trường đại học California (Mỹ). Cho đến khi xuất hiện thuốc ức chế miễn dịch (azathioprine - prednisolon) và quy trình bảo quản tạng đã hoàn thiện quá trình thực nghiệm ghép gan. Ngày 01/03/1963 tại Denver – Colorado (Mỹ), Thomas E. Starzl lần đầu tiên thực hiện ghép gan trên người, tuy nhiên ca mổ không thành công cháu bé đã chết trên bàn do không cầm được máu, sau đó 6 ca ghép gan tiếp theo được thực hiện tại Denver, Boston và tại Paris cũng không thành công, bệnh nhân sống lâu nhất là 75 ngày. Sau 3 năm với các nghiên cứu về hòa hợp miễn dịch, thuốc chống thải ghép... đến ngày 23/07/1967 cũng chính Starzl đã thực hiện thành công ca ghép gan với thời gian sống thêm sau mổ là 16 tháng. Đến nay lĩnh vực ghép gan đã có những bước phát triển lớn như ghép gan từ người cho chết não, ghép gan từ người cho sống, chia gan để ghép… giúp điều trị cho rất nhiều trường hợp bệnh lý gan mật mà các phương pháp điều trị khác không có kết quả. Số lượng bệnh nhân ghép gan ngày càng tăng, tính đến năm 2015 có khoảng hơn 100000 ca ghép gan đã được trên thế giới 1. Hiểu biết về hệ thống gan mật tụy ngày càng được nâng cao, các công cụ hỗ trợ hiện đại mới cùng với sự ra đời của các thế hệ thuốc chống thải ghép mới … giúp kết quả điều trị sau mổ ghép gan ngày càng được cải thiện. Tỉ lệ sống sau 5 năm của nhóm ghép gan do nguyên nhân ung thư gan và xơ gan tăng dần. Chỉ định điều trị cũng ngày càng được chuẩn hóa, cập nhật thường xuyên, nâng cao chất lượng cuộc sống của người được ghép. Tại Việt Nam, ca ghép gan đầu tiên được thực hiện vào tháng 01/2004 tại bệnh viện 103 cho một bệnh nhân nhi mắc teo đường mật bẩm sinh. Phẫu thuật ghép gan ở người lớn được thực hiện lần đầu tiên vào tháng 12 năm 2007 tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Số ca ghép gan cũng tăng dần theo từng năm. Tính đến hết năm 2017, có 70 ca ghép gan đã được thực hiện tại Việt Nam, với hơn một nửa số ca bệnh được thực hiện tại bệnh viện Việt Đức. Mặc dù kiến thức và kĩ thuật ghép gan tại Việt Nam nói chung và bệnh viện Việt Đức nói riêng ngày càng được hoàn thiện, tuy nhiên chưa có nghiên cứu đánh giá kết quả của phương pháp này. Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá kết quả điều trị ghép gan tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2010-2018” với 2 mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của các bệnh nhân ghép gan tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức trong giai đoạn 2010-2018. 2. Đánh giá kết quả điều trị sớm sau mổ ghép gan tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức trong giai đoạn 2010-2018. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2625 |
Bộ sưu tập: | Luận văn chuyên khoa 2 |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
2020CKII0117.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 2.15 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.