Vui lòng dùng định danh này để trích dẫn hoặc liên kết đến tài liệu này:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2508
Nhan đề: | “Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và vi khuẩn ở bệnh nhân xơ gan có nhiễm trùng dịch cổ trướng” |
Tác giả: | LÒ THỊ, BÍCH THÙY |
Người hướng dẫn: | Nguyễn Công, Long |
Từ khoá: | Nội khoa |
Năm xuất bản: | 2020 |
Nhà xuất bản: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Tóm tắt: | Xơ gan là bệnh thường gặp ở nước ta và ở các nước trên thế giới, chiếm hàng đầu trong các bệnh lý về gan mật. Xơ gan đặc trưng bởi sự biến dạng của cấu trúc gan và sự hình thành các nốt tái tạo. Xơ gan chiếm khoảng 49.500 ca tử vong và là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ tám tại Hoa Kỳ trong năm 2010 1. Tương tự, một nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Chỉ số Tử vong Quốc gia từ Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh và Dự án Dịch tễ học Rochester đã ước tính rằng bệnh gan là nguyên nhân gây ra 66.007 ca tử vong trong năm 2008, trong đó 18.175 là do ung thư gan 2. Tuy nhiên ở nước ta chưa có một số liệu chính xác về tỉ lệ bệnh xơ gan vì bệnh thường biểu hiện một cách thầm lặng và thường chỉ được phát hiện khi có biến chứng. Nhiễm trùng dịch cổ trướng là bệnh nhiễm khuẩn thường gặp nhất ở bệnh nhân xơ gan, sau đó là nhiễm trùng đường tiết niệu, viêm phổi, nhiễm trùng da và mô mềm và nhiễm khuẩn huyết tự phát. Chúng chiếm 25% đến 46% tỉ lệ nhập viện do các biến cố mất bù cấp tính ở bệnh nhân xơ gan và có liên quan đến tỷ lệ tử vong và tử vong cao của bệnh nhân xơ gan mất bù, tỷ lệ tử vong 30% sau tháng đầu tiên và 63% sau năm đầu tiên theo dõi3. Sự xuất hiện của NTDCT thay đổi tùy theo dân số nghiên cứu. Người ta ước tính rằng tỷ lệ mắc bệnh lên tới 3,5% sau 1 năm ở những bệnh nhân ngoại trú bị xơ gan mất bù và dao động từ 7% đến 30% ở những bệnh nhân nhập viện bị xơ gan và cócổ trướng4-6. Trong một nghiên cứu đa trung tâmgần đây, Piano et al đã báo cáo tỷ lệ SBP là 27% trên 1.302 bệnh nhân nội trú bị xơ gan và nhiễm khuẩn7. Sự sống sót sau lần đầu tiên được ước tính là 40% sau 1 năm8. Suy thận cấp tính xảy ra ở 54% bệnh nhân và suy gan cấp tính xảy ra ở 35% đến 60% bệnh nhân, mặc dù đã được điều trị thích hợp8,9. Theo nghiên cứu gần đây, có 70% vi khuẩn phân lập ở bệnh nhân NTDCT kháng quinolone10. Điều này đặc biệt đáng lo ngại, vì norfloxacin vẫn là kháng sinh được lựa chọn trong điều trị dự phòng SBP. Về các vi khuẩn kháng đa kháng sinh, chúng được tìm thấy chủ yếu trong viêm phúc mạc do vi khuẩn bệnh viện. Tuy nhiên, 4% đến 16% SBP do vi khuẩn mắc phải trong cộng đồng cũng gây nên tình trạng vi khuẩn đa kháng kháng sinh4. Trong nghiên cứu đa trung tâm nói trên tỷ lệ lưu hành của các sinh vật kháng đa kháng sinh ở bệnh nhân xơ gan và nhiễm khuẩn đạt 35%7. Vi khuẩn gram âm sản xuất men beta-lactamase phổ rộng, như Enterobacteriaceae, là những vi khuẩn đa kháng thuốc phổ biến nhất (34%)7, sau đó là Enterobacteriaceae kháng carbapenem (27%)7. Với sự ra đời của các biến thể vi sinh này, điều cần thiết là phải thực hiện giám sát vi khuẩn tại địa phương để điều chỉnh việc sử dụng kháng sinh dự phòng và điều trị. NTDCTlà một biến chứng rất thường gặp ở bệnh nhân xơ gan.Ở nước ta đã có nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này, đặc biệt là vấn đề liên quan đến đặc điểm vi khuẩn học. Tuy nhiên tỉ lệ vi khuẩn đa kháng ngày càng tăng vì vậy điều cần thiết là phải có hiểu biết về vi khuẩn học tại địa phương. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và vi khuẩn ở bệnh nhân xơ gan có nhiễm trùng dịch cổ trướng” với 2 mục tiêu sau: 1. Đối chiếu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng giữa hai nhóm bệnh nhân xơ gan có nhiễm trùng dịch cổ trướng cấy vi khuẩn dương tính và âm tính. 2. Xác định tỉ lệ cấy vi khuẩn dịch cổ trướng dương tính và nhận xét một số đặc điểm vi khuẩn học ở bệnh nhân xơ gan có nhiễm trùng dịch cổ trướng. |
Định danh: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2508 |
Bộ sưu tập: | Luận văn thạc sĩ |
Các tập tin trong tài liệu này:
Tập tin | Mô tả | Kích thước | Định dạng | |
---|---|---|---|---|
20THS0681.pdf Tập tin giới hạn truy cập | 1.69 MB | Adobe PDF | Đăng nhập để xem toàn văn |
Khi sử dụng các tài liệu trong Thư viện số phải tuân thủ Luật bản quyền.