Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1013
Title: ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ SỌ NÃO VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ CO THẮT NỬA MẶT NGUYÊN PHÁT
Authors: TRƯƠNG, HUỆ LINH
Advisor: PGS.TS. NGUYỄN, VĂN LIỆU
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Co thắt nửa mặt là bệnh lý đặc trưng bởi các cử động co giật hoặc co cứng không chủ ý và không đều của các cơ ở một bên mặt vốn do thần kinh VII cùng bên chi phối.1 Theo một nghiên cứu của Raymond và cộng sự, tỉ lệ mắc ước tính trên thế giới của co thắt nửa mặt là 14,5 trên 100000 phụ nữ và 7,4 trên 100000 nam giới. Tuy nhiên, nguồn bệnh nhân có xu hướng tập trung cao hơn ở những cơ sở có khả năng điều trị bệnh hiệu quả. Độ tuổi trung bình khởi phát của co thắt nửa mặt là 44 tuổi.2 Co thắt nửa mặt được chia thành hai loại là co thắt nửa mặt nguyên phát và co thắt nửa mặt thứ phát. Co thắt nửa mặt nguyên phát chiếm phần lớn các trường hợp, nguyên nhân chính được cho là do sự chèn ép của mạch máu vào dây thần kinh mặt tại lối ra của dây này; khác với co thắt nửa mặt thứ phát do khối u, dị dạng mạch đè ép vào dây VII.1,3 Nghiên cứu này của chúng tôi nói về co thắt nửa mặt nguyên phát. Dù lành tính nhưng co thắt nửa mặt nguyên phát có thể gây ảnh hưởng đến thẩm mĩ, giao tiếp xã hội, thậm chí ảnh hưởng đến công việc, sinh hoạt, đi lại của bệnh nhân do tình trạng nhắm mi mắt quá mức, từ đó ảnh hưởng tùy mức độ đến chất lượng cuộc sống của người bệnh.4 Chẩn đoán co thắt nửa mặt chủ yếu dựa vào lâm sàng. Hình ảnh trên cộng hưởng từ và chẩn đoán điện sinh lí góp phần loại trừ các nguyên nhân thứ phát và giúp cho chẩn đoán phân biệt.5 Ngày nay, nhờ tiến bộ của chẩn đoán hình ảnh, đặc biệt là kĩ thuật chụp cộng hưởng từ dựng xung T2-CISS, tỉ lệ phát hiện xung đột mạch máu – thần kinh VII gia tăng. Đã có nhiều nghiên cứu ngoài nước bàn luận về vấn đề này.6, 7 Tuy nhiên tại Việt Nam, đặc biệt khu vực phía Bắc, lại chưa có nhiều nghiên cứu về phát hiện xung đột thần kinh mạch máu trên cộng hưởng từ, cũng như chưa có nghiên cứu đánh giá mối tương quan giữa độ nặng của chèn ép trên phim với độ nặng của triệu chứng lâm sàng.8 Hiện nay, có nhiều phương pháp điều trị co thắt nửa mặt, bao gồm điều trị nội khoa, tiêm Botulinum toxin vào các cơ vùng mặt và các biện pháp điều trị can thiệp. Trong đó, điều trị nội khoa có hiệu quả không cao, can thiệp phẫu thuật là điều trị nguyên nhân, tuy nhiên chỉ những cơ sở có điều kiện với đội ngũ phẫu thuật viên có kinh nghiệm mới có thể tiến hành. Còn tiêm Botulinum toxin là lựa chọn hàng đầu hiện nay trong điều trị cải thiện triệu chứng, đem lại hiệu quả rõ rệt ở đa số bệnh nhân. Tại Việt Nam, cũng đã có những nghiên cứu cho thấy hiệu quả của Botulinum toxin, tuy nhiên chưa tìm được nghiên cứu thật đầy đủ và hệ thống, cũng như chưa có nghiên cứu nào làm rõ mối liên quan giữa hiệu quả điều trị và đặc điểm trên phim CHT dây VII, để từ đó định hướng cho việc lựa chọn phương pháp điều trị cho từng trường hợp cụ thể.9, 10 Vì những vấn đề nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài: ‘‘Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ sọ não và kết quả điều trị co thắt nửa mặt nguyên phát’’. Nhằm hai mục tiêu: (1) Mô tả đặc điểm lâm sàng và hình ảnh cộng hưởng từ sọ não ở bệnh nhân co thắt nửa mặt nguyên phát. (2) Đánh giá kết quả điều trị bước đầu tiêm Botulinum toxin ở bệnh nhân co thắt nửa mặt nguyên phát.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1013
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21THS0095.pdf
  Restricted Access
1.96 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.