Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/833
Title: Kiến thức, thái độ về kiểm soát nhiễm khuẩn của điều dưỡng tại một số khoa lâm sàng hệ ngoại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương
Authors: NGUYỄN THỊ, HUẾ
Advisor: GS.TS. Nguyễn Hữu, Tú
TS. Nguyễn Thị Minh, Thu
Keywords: kiểm soát nhiễm khuẩn của điều dưỡng
Issue Date: 2019
Publisher: ĐH Y Hà Nội
Abstract: Nhiễm khuẩn bệnh viện (NKBV) đang là vấn đề y tế toàn cầu do làm tăng tỉ lệ biến chứng, tăng tử vong cho người bệnh (NB). NKBV làm tăng sử dụng kháng sinh và dễ dẫn tới đề kháng kháng sinh, kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị. Đó là vấn đề quan trọng trong quản lý chất lượng chăm sóc và chi phí điều trị của bệnh viện (BV) cũng như NB ở các quốc gia. Theo thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, năm 2007 tại các nước đang phát triển cho kết quả 1,4 triệu NB mắc NKBV, chi phí cho NB mắc NKBV khoảng 1.300.000- 2.300.000 USD/ năm. Tại Châu Âu, tỷ lệ tử vong do NKBV khoảng 50.000 ca tử vong/ năm [1]. Tại Việt Nam tỷ lệ NKBV chung ở NB nhập viện từ 5%- 10% tùy theo đặc điểm và quy mô bệnh viện. Những BV tiếp nhận càng nhiều NB nặng, thực hiện càng nhiều thủ thuật xâm lấn thì nguy cơ mắc NKBV càng cao. Tỷ lệ NKBV có thể lên tới 20%- 30% ở những khu vực có nguy cơ cao như Hồi sức tích cực (HSTC), ngoại khoa… Các loại NKBV thường gặp là nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM), nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN),… [2]. Theo nghiên cứu của Bùi Hồng Giang năm 2013 tại khoa HSTC BV Bạch Mai cho thấy: nhiễm khuẩn hô hấp là 68,1%, NKTN là 8,3% [3]. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến NKBV như là môi trường, NB, từ các hoạt động khám và chữa bệnh. Trong đó yếu tố con người đóng vai trò quan trọng. NB có thể mắc NKBV khi nhân viên y tế (NVYT) không tuân thủ nghiêm ngặt các quy trình thực hành trong chăm sóc, điều trị. Đặc biệt, điều dưỡng (ĐD) là những người thường xuyên tiếp xúc và chăm sóc trực tiếp cho NB, nếu không có đủ kiến thức, thái độ và thực hành đúng về kiểm soát nhiễm khuẩn (KSNK) sẽ ảnh hưởng đến NB. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Tuyết Mai, khảo sát về thực trạng kiến thức, thái độ và thực hành về KSNK của ĐD BV E năm 2015, tỷ lệ đạt về kiến thức, thái độ và thực hành của ĐD là khá thấp, một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thái độ và thực hành ở đối tượng nghiên cứu: trình độ học vấn, thâm niên công tác… [4]. Ở nước ta hiện nay, công tác KSNK đã được Bộ Y tế đưa vào danh mục kiểm tra đánh giá chất lượng BV hàng năm [5]. Tuy nhiên vấn đề này còn gặp nhiều khó khăn do ngân sách hạn hẹp, tình trạng quá tải, cơ sở vật chất còn yếu kém, phần lớn NVYT chưa nhận thức được tầm quan trọng của KSNK BV. BV Đa khoa tỉnh Hải Dương là BV hạng I, lưu lượng NB đến khám và điều trị rất đông, mặt bệnh đa dạng từ nhẹ đến nặng nên công tác KSNK có vai trò rất cần thiết, đặc biệt tại một số khoa có nguy cơ lây nhiễm cao như khoa Hồi sức tích cực ngoại và các khoa ngoại. Theo báo cáo của BV Đa khoa tỉnh Hải Dương, có 4 dạng NKBV chính, đều liên quan đến thủ thuật xâm lấn hoặc chăm sóc NB của ĐD là nhiễm trùng vết mổ; nhiễm trùng đường tiết niệu do đặt ống thông; viêm phổi liên quan đến thở máy; nhiễm trùng máu liên quan đến ống thông. Để phòng chống NKBV, BV cũng đưa ra một số biện pháp khuyến cáo như VST, tuân thủ nghiêm ngặt vô khuẩn khi thực hiện các thủ thuật [6]. Nhận thức được đầy đủ việc phòng chống NKBV trong công tác KSNK của BV, nhân viên y tế đặc biệt là đội ngũ ĐD trở nên bức thiết hơn bao giờ hết vì đây là đối tượng thường xuyên chăm sóc NB. Với mục đích tìm hiểu thực trạng kiến thức, thái độ của ĐD trên cơ sở đó đưa ra giải pháp KSNK phù hợp với BV
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/833
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
NGUYỄN THỊ HUẾ CH Đ Dưỡng.doc
  Restricted Access
1.54 MBMicrosoft Word


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.