Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3426
Title: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VÔ SINH BẰNG PHƯƠNG PHÁP BƠM TINH TRÙNG VÀO BUỒNG TỬ CUNG TẠI BỆNH VIỆN SẢN NHI NGHỆ AN
Authors: NGUYỄN HỮU, HOÀI
Advisor: PGS.TS. NGUYỄN XUÂN, HỢI
Keywords: Sản phụ khoa
Issue Date: 2020
Publisher: Đại học y Hà Nội
Abstract: Trong sức khỏe sinh sản thì vô sinh là một đề tài đã và đang tiếp tục được nghiên cứu để tìm ra phương pháp điều trị hữu hiệu. Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới WHO: Một cặp vợ chồng mới cưới, có sức khỏe bình thường, sau 12 tháng chung sống, trong sinh hoạt tình dục không sử dụng bất kỳ biện pháp tránh thai nào mà người vợ chưa lần nào có thai được xếp vào nhóm vô sinh1. Cũng theo tổ chức Y tế thế giới, có khoảng 30% nguyên nhân gây vô sinh là do người chồng, 40% là do vợ, 20% do cả hai vợ chồng và khoảng 10% không xác định được nguyên nhân2. Trong các kỹ thuật để điều trị vô sinh thì phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung (Intra Uterine Insemination – IUI) đã được ghi nhận là có hiệu quả trong điều trị vô sinh do rối loạn phóng noãn và các trường hợp không rõ nguyên nhân. Đây là phương pháp phổ biến, đơn giản và hiệu quả, có thể áp dụng ở hầu hết các cơ sở khám chữa bệnh có cán bộ được đào tạo, không đòi hỏi cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại, phù hợp với thực tiễn của nhiều tỉnh trên cả nước3. Năm 2014, tổ chức Y tế Thế Giới WHO đã mời các chuyên gia giúp phát triển và đưa ra các khuyến nghị dự thảo dựa trên bằng chứng sẵn có cho sáu lĩnh vực ưu tiên, trong đó có phương pháp điều trị sinh sản IUI có hoặc không có kèm theo kích thích buồng trứng4. Các báo cáo về tỷ lệ có thai lâm sàng của phương pháp IUI dao động rất lớn từ 10% - 30%. Sự kết hợp kích thích buồng trứng và IUI đã đưa đến sự cải thiện rõ rệt tỷ lệ có thai lâm sàng của kỹ thuật này4. Một nghiên cứu hồi cứu có quy mô rất lớn tại Vương Quốc Anh được công bố vào tháng 3 năm 2020 của Cơ quan Thụ tinh nhân tạo và phôi thai (Human Fertilisation and Embryology Authority - HFEA) trong 5 năm từ 2012-2016 đã thực hiện trong 319.105 IVF / ICSI và 30.669 chu kỳ IUI, để đánh giá một cách tổng thể nhất về tỷ lệ có thai, các nguy cơ xẩy ra và chi phí điều trị giữa IVF và IUI. Có kết luận là: IUI an toàn và tiết kiệm chi phí hơn so với IVF; tỷ lệ thành công của IUI những năm gần đây đã thu hẹp khoảng cách so với IVF; tỷ lệ đa thai và nguy cơ quá kích buồng trứng trong IVF cao hơn nhiều so với IUI; và nghiên cứu này cũng đưa ra khuyến cáo trên toàn quốc là nên cần thiết thực hiện IUI trước khi làm IVF đối với những cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn không rõ nguyên nhân.5 Tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, từ năm 2016 đã tiến hành khám và điều trị cho các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn, đặc biệt đã triển khai được kỹ thuật bơm tinh trùng vào buồng tử cung, hiện tại đã thu được thành công và đem lại hạnh phúc cho nhiều cặp vợ chồng. Tuy nhiên đến nay, sự hiểu biết về tình trạng vô sinh và các phương pháp điều trị trên địa bàn tỉnh Nghệ An còn rất sơ khai, chưa có một đề tài khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này. Việc địa lý cách xa các trung tâm lớn của cả nước như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh gây khó khăn rất lớn cho các cặp vợ chồng có nhu cầu mong con trong tỉnh cũng như các tỉnh lân cận. Xuất phát từ thực tiễn này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Kết quả điều trị vô sinh bằng phương pháp bơm tinh trùng vào buồng tử cung tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An” với hai mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của cặp vợ chồng vô sinh được điều trị bằng phương pháp bơm IUI tại bệnh viện Sản Nhi Nghệ An từ 7/2019 – 8/2020. 2. Đánh giá kết quả điều trị bằng phương pháp IUI và phân tích một số yếu tố liên quan đến kết quả có thai lâm sàng của những cặp vợ chồng vô sinh trên.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3426
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
0481NGUYEN HUU HOAI.pdf
  Restricted Access
1.27 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.