Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1573
Title: KHẢO SÁT CHỈ SỐ DEMEESTER Ở BỆNH NHÂN CÓ BIỂU HIỆN TRÀO NGƯỢC DẠ DÀY THỰC QUẢN
Authors: NGUYỄN VĂN, KHANH
Advisor: Đào Việt, Hằng
Keywords: Nội khoa
Issue Date: 2019
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản (GERD) là bệnh lý phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tỷ lệ mắc vào khoảng 18,1% - 27,8% ở Bắc Mỹ; 8,7% - 33,1% ở Trung – Đông; 8,8% - 25,9% ở Châu Âu; 2,5% - 7,8% ở Đông Á và 23% ở Nam Mỹ [1]. Đây là bệnh lý có cơ chế bệnh sinh phức tạp với nhiều yếu tố nguy cơ bao gồm tình trạng giảm nhu động thực quản, áp lực cơ thắt thực quản dưới thấp, thoát vị hoành, béo phì … [2]. Các biểu hiện thường gặp nhất của GERD là nóng rát sau xương ức, cảm giác trào ngược, ợ chua, ợ nóng [3]. GERD kéo dài có thể gây các biến chứng như loét thực quản, thực quản Barrett, ung thư biểu mô thực quản [4]. Do vậy phát hiện sớm GERD giúp định hướng điều trị, góp phần quan trọng giảm các biến chứng có thể xảy ra trên bệnh nhân. Có nhiều phương pháp chẩn đoán GERD với những ưu nhược điểm riêng. Các bảng điểm lâm sàng như GERDQ, FSSG [5] [6], điều trị thử với thuốc ức chế bơm proton (PPI) có độ nhạy và độ đặc hiệu không cao [7]. Nội soi đường tiêu hóa trên ở bệnh nhân GERD ghi nhận chỉ khoảng 30,0 % các trường hợp có tổn thương viêm thực quản ăn mòn trên nội soi, khi bệnh nhân đã điều trị PPI thì tỷ lệ này dưới 10,0% [8]. Kỹ thuật đo pH – trở kháng thực quản 24 giờ giúp khảo sát thời gian niêm mạc thực quản tiếp xúc với acid bất thường, số lượng và đặc điểm của các cơn trào ngược. Hiện tại, đây được coi là tiêu chuẩn vàng của chẩn đoán GERD [9], [10], đặc biệt trong những trường hợp triệu chứng không đáp ứng với điều trị thuốc giảm tiết acid. Năm 1974, một nhóm tác giả đứng đầu là DeMeester đề xuất một chỉ số tính toán từ 6 thông số trên pH – trở kháng 24 giờ, được gọi là chỉ số DeMeester. Lupu và cộng sự (2016) đã tiến hành nghiên cứu giá trị của chỉ số DeMeester trong chẩn đoán GERD và ghi nhận độ nhạy và độ đặc hiệu của chỉ số này lần lượt là 86,62% và 98,43% [11], [12]. Hiện tại, kỹ thuật đo pH – trở kháng ở Việt Nam đã bắt đầu có một số dữ liệu nghiên cứu. Nghiên cứu của tác giả Đào Việt Hằng, Hoàng Bảo Long [13] đã bước đầu đánh giá việc sử dụng kỹ thuật đo pH – trở kháng 24 giờ trên những bệnh nhân có triệu chứng GERD kháng trị với PPI. Kết quả cho thấy kỹ thuật này có thể phân biệt được bệnh nhân GERD bệnh lý với nóng rát chức năng, tuy nhiên chưa phân tích sâu về giá trị của chỉ số DeMeester . Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Khảo sát chỉ số DeMeester ở bệnh nhân có biểu hiện trào ngược dạ dày thực quản” với 2 mục tiêu: 1. Khảo sát chỉ số DeMeester ở bệnh nhân có biểu hiện trào ngược dạ dày thực quản. 2. Đối chiếu chỉ số DeMeester với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng. 
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1573
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
19THS1036.pdf
  Restricted Access
1.43 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.