Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1301
Title: ĐáNH GIá KếT QUả ĐIềU TRị GEFITINIB BƯớC 1 UNG THƯ PHổI KHÔNG Tế BàO NHỏ GIAI ĐOạN IV Có ĐộT BIếN EGFR TạI BệNH VIệN K
Authors: NGUYỄN VĂN, CAO
Advisor: TS. NGUYỄN THỊ THÁI, HÒA
Keywords: Ung thư;8720108
Issue Date: 2020
Publisher: ĐHY
Abstract: Ung thư phổi (UTP) là loại ung thư phổ biến nhất trên thế giới, theo Globocan 2018 có khoảng hơn 2 triệu ca mới mắc, chiếm 11.6% các loại ung thư nói chung với số ca mới mắc mỗi năm khoảng 2.093.876 ca, tăng trung bình 0.5%1.Tỷ lệ mắc ung thư phổi rất khác biệt ở các nước. Tại Việt Nam theo ghi nhận tại Hà Nội trong giai đoạn 2006 – 2007 UTP đứng ở vị trí thứ nhất ở nam giới chiếm 21.4% và thứ 4 ở nữ giới chiếm 8.1%. Ung thư phổi là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở cả 2 giới, với tỷ lệ tử vong là hơn 1,7 triệu ca2. Ung thư phổi là loại ung thư có tiên lượng xấu, điều trị còn nhiều khó khăn, tỷ lệ tử vong cao, sống thêm 5 năm chỉ khoảng 15%3, 4, 5. Bằng các chứng cứ khoa học người ta đã chứng minh được thuốc lá là yếu tố nguy cơ ngoại sinh hàng đầu gây nên 85% các trường hợp ung thư phổi. Những người nghiện thuốc lá có nguy cơ mắc UTP cao gấp 20 – 40 lần so với người không hút. Một số các yếu tố nguy cơ khác như arsenic, asbestos, hydrocarbones, khí mutard, tia phóng xạ cũng là các yếu tố nguy cơ gây UTP5,6. Ung thư phổi có 2 nhóm giải phẫu bệnh lý chính là UTP không tế bào nhỏ(UTPKTBN) chiếm khoảng 85% và UTP tế bào nhỏ(UTPTBN) chiếm khoảng 15%. Hai nhóm này có tiên lượng và phương pháp điều trị hoàn toàn khác nhau. UTPKTBN có tiên lượng tốt hơn và có nhiều biện pháp điều trị hơn UTPTBN4,5,7,8. Khoảng 3/4 các bệnh nhân UTP không tế bào nhỏ đến viện trong giai đoạn muộn, điều trị chủ yếu là các phương pháp điều trị toàn thân, điều trị triệu chứng. Điều trị hóa chất đã khẳng định được vai trò trong giai đoạn này, tuy nhiên có nhiều độc tính kèm theo và còn nhiều hạn chế như tỷ lệ đáp ứng không cao và thuốc không qua được hàng rào máu não7,9. Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của y học phân tử, rất nhiều các đột biến gen trong UTP được phát hiện mở ra các hướng điều trị mới hiệu quả và giảm được các tác dụng không mong muốn. Trong đó đột biến gen EGFR chiếm tỷ lệ cao trong nhóm UTP không tế bào nhỏ. Theo nghiên cứu Pioneer tỷ lệ đột biến gen EGFR ở Việt nam lên đến 64%10. Trên thế giới các thuốc kháng EGFR như Erlotinib, Gefitinib, Afatinib hay Osimertinib đã chứng minh được hiệu quả điều trị cao hơn và ít tác dụng phụ hơn khi so sánh với hóa trị liệu thông qua nhiều nghiên cứu như OPTIMAL, IPASS, LUX LUNG 3, 6, FLAURA... Tại Việt Nam hiện nay các thuốc điều trị đích tác động lên thụ thể EGFR từ thế hệ I đến thế hệ III đã được chấp thuận để điều trị cho các bệnh nhân UTPKTBN có đột biến gen EGFR. Đã có các nghiên cứu đánh giả hiệu quả của các thuốc kháng EGFR này trên các bệnh nhân UTPKTBN, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả và các tác dụng không mong muốn của Gefitinib trong các bệnh nhân UTP giai đoạn IV có đột biến gen EGFR. Do đó chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm 2 mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị Gefitinib bước 1 ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IV có đột biến EGFR. 2. Đánh giá các tác dụng không mong muốn của phương pháp điều trị này.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1301
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0227.pdf
  Restricted Access
1.93 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.