Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1282
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorTS. PHẠM VĂN, BÌNH-
dc.contributor.advisorPGS.TS. PHẠM ĐỨC, HUẤN-
dc.contributor.authorNGUYỄN DUY, THANH-
dc.date.accessioned2021-11-03T07:55:16Z-
dc.date.available2021-11-03T07:55:16Z-
dc.date.issued2020-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1282-
dc.description.abstractUng thư thực quản là bệnh thường gặp: Trên thế giới, theo GLOBOCAN 2018 ung thư thực quản đứng thứ 8 trong các bệnh ung thư, đứng thứ 5 trong các bệnh ung thư đường tiêu hóa; tỷ lệ mắc mới hằng năm là 572.000 ca. Tại Việt Nam, ung thư thực quản đứng thứ 9 trong các bệnh ung thư, đứng hàng thứ 5 trong các loại ung thư đường tiêu hóa1,2. Bệnh gặp ở nam giới nhiều hơn nữ giới3. Điều trị ung thư thực quản là điều trị đa mô thức (bao gồm hóa trị, xạ trị và phẫu thuật). Lựa chọn phương pháp điều trị phụ thuộc vào giai đoạn bệnh, vị trí u, trình độ bác sĩ, thể trạng bệnh nhân... trong đó phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu. Phẫu thuật trong ung thư thực quản là cắt thực quản, nạo vét hạch rộng rãi và tạo hình thực quản bằng dạ dày hoặc đại tràng. Lựa chọn phương pháp phẫu thuật cắt thực quản còn nhiều tranh luận trong y văn. Phẫu thuật kinh điển là cắt thực quản và nạo hạch ba trường mổ cổ ngực bụng là phẫu thuật có tính triệt để, song tỉ lệ tai biến, biến chứng còn cao đặc biệt là biến chứng liên quan đến hô hấp, vết mổ lớn và đau sau mổ . Sự ra đời của phẫu thuật nội soi (PTNS) được xem là bước tiến mới của ngành ngoại khoa. Phẫu thuật cắt ung thư thực quản qua nội soi ngực phải kết hợp với mở bụng được Colard mô tả và áp dụng lần đầu tiên vào năm 1991. Các kết quả nghiên cứu đều khẳng định phẫu thuật cắt thực quản nội soi nạo vét hạch hai vùng ngực bụng có nhiều ưu điểm hơn: vết mổ nhỏ, thẩm mỹ, ít đau, ít tai biến và giảm các biến chứng hô hấp sau mổ. Có nhiều nghiên cứu nước ngoài khẳng định PTNS có thể vét hạch và tỷ lệ sống 5 năm ngang bằng mổ mở 4. Sự phát triển của các phương tiện như dao siêu âm, dao ligasure, các dụng cụ khâu nối máy cơ học, máy nội soi 3D làm cho phẫu thuật dễ dàng và thuận lợi hơn. Tại Việt Nam, phẫu thuật ung thư thực quản được áp dụng từ năm 1991. Từ năm 2003, đã có một số trung tâm tiến hành phẫu thuật nội soi cắt thực quản như bệnh viện Việt Đức, bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, bệnh viện Bình Dân, bệnh viện 108... và 2 năm trở lại đây đang được triển khai ở bệnh viện K, mang lại kết quả bước đầu tương đối khả quan. Tại bệnh viện K chúng tôi bắt đầu thực hiện phẫu thuật nội soi cắt thực quản từ 2018 đến 2020 được 42 trường hợp. Xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi tiến hành đề tài: “Đánh giá kết quả sớm phẫu thuật nội soi ngực bụng điều trị ung thư thực quản tại bệnh viện K” với hai mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ưng thư thực quản được phẫu thuật nội soi ngực bụng tại Bệnh viện K. 2. Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật nội soi ngực bụng điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện K.vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherĐHYvi_VN
dc.subjectNgoại khoavi_VN
dc.subject8720104vi_VN
dc.titleĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SỚM PHẪU THUẬT NỘI SOI NGỰC BỤNG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN TẠI BỆNH VIỆN Kvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0208.pdf
  Restricted Access
1.84 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.