Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1251
Title: KHẢO SÁT NỒNG ĐỘ VCA-IGA, EA-IGA KHÁNG EPSTEIN-BARR VIRUS TRONG HUYẾT THANH CỦA BỆNH NHÂN UNG THƯ BIỂU MÔ VÒM MŨI HỌNG
Authors: NGUYỄN THỊ KIM, HUỆ
Advisor: GS.TS. TẠ THÀNH, VĂN
Keywords: Hóa sinh;8720101
Issue Date: 2020
Publisher: ĐHY
Abstract: Ung thư vòm mũi họng (UTVMH) là ung thư thường gặp nhất vùng đầu cổ. Theo GLOBOCAN 2018, trên thế giới có 129.079 trường hợp UTVMH mới mắc, trong đó khu vực có nguy cơ cao là Trung Quốc và Đông Nam Á. UTVMH có tỷ lệ tử vong ngày càng gia tăng (72.987 trường hợp).1 Việt Nam cũng nằm trong khu vực có tỷ lệ mắc UTVMH cao, số trường hợp mới mắc lên tới 6.212 người (chiếm 3,8% trong tất cả các loại ung thư) và đứng thứ 6 trong 10 loại ung thư phổ biến nhất.2 Ung thư biểu mô (nasopharyngeal carcinoma – UTBMVMH) là thể mô bệnh học chiếm chủ yếu (80 – 95%) trong số UTVMH.3 Bệnh liên quan đến nhiều yếu tố như địa lý, chủng tộc, thói quen sinh hoạt và đặc biệt là vai trò sinh bệnh học của Epstein-Barr Virus (EBV).4,5 Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị nhưng có tới 70% các trường hợp người bệnh đến khám bệnh đã đến giai đoạn III và IV.6 Tỷ lệ sống sót sau 10 năm đối với bệnh nhân UTBMVMH có thể đạt 98% ở giai đoạn I và 60% ở giai đoạn II.7 Trong khi đó ở giai đoạn tiến triển thời gian sống trung bình của bệnh nhân là 3 năm.8 Vì vậy, việc tìm ra một dấu ấn sinh học giúp chẩn đoán và phát hiện sớm UTVMH có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Kháng thể EBV trong huyết thanh bao gồm: IgM, IgA, IgG của VCA; EA; EBNA1 và Zta-IgA.9 VCA-IgA là các kháng thể kháng nguyên vỏ của EBV có thể phát hiện sớm sau nhiễm EBV từ 2 – 4 tuần hoặc các trường hợp có tái hoạt hóa virus từ thể tiềm ẩn.10 EA-IgA là kháng thể chống lại kháng nguyên sớm, liên quan đến sự phosphoryl hóa mạnh mẽ của quá trình nhân bản DNA EBV sớm. Tương tự VCA-IgA thì EA-IgA cũng xuất hiện và tăng cao khi có sự tái hoạt hóa virus từ thể tiềm ẩn.11 Trên thế giới, một số nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của kháng thể VCA-IgA, EA-IgA của EBV trong việc chẩn đoán sớm và sàng lọc UTBMVMH.12–14 Theo Xia Cui và cộng sự (2015) thực hiện bởi kỹ thuật ELISA cho kết quả độ nhạy và độ đặc hiệu của VCA-IgA lần lượt là 79,69%; 95% và EA-IgA lần lượt là 71,88%; 96,67%.15 Tại Việt Nam, giá trị của VCA-IgA, EA-IgA trong UTVMH đã được quan tâm từ những năm 90 của thể kỉ 20. Tuy nhiên chưa có nhiều nghiên cứu trên thể ung thư biểu mô chịu ảnh hưởng nhiều nhất của EBV.16–19 Vì vậy, chúng tôi thực hiện đề tài: “Khảo sát nồng đồ VCA-IgA, EA-IgA kháng Epstein-Barr virus trong huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô vòm mũi họng” với 2 mục tiêu: 1. Khảo sát nồng độ kháng thể VCA-IgA, EA-IgA trong huyết thanh của bệnh nhân ung thư biểu mô vòm mũi họng. 2. Đánh giá mối liên quan giữa nồng độ kháng thể VCA-IgA, EA-IgA với một số yếu tố lâm sàng và cận lâm sàng.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1251
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0183.pdf
  Restricted Access
2.39 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.