Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/943
Title: NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH NỘI SOI VÀ MÔ BỆNH HỌC CỦA UNG THƯ ĐẠI TRỰC TRÀNG TỪ NĂM 2019 ĐẾN 2020
Authors: LÊ, VĂN VINH
Advisor: TS. Vũ, Trường Khanh
Issue Date: 2020
Publisher: Trường Đại học Y Hà Nội
Abstract: Ung thư đại trực tràng (Colorectal cancer - CRC) là bệnh ác tính phổ biến thứ ba và là nguyên nhân đứng thứ tư gây tử vong trong các bệnh ung thư trên thế giới 1. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), ung thư đại trực tràng gây ra khoảng 1,8 triệu ca tử vong trên toàn thế giới vào năm 2018 2, dự kiến tới năm 2030 có khoảng 2,2 triệu trường hợp mắc mới 1. Tỷ lệ mắc và tử vong của ung thư đại trực tràng cao ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở Đông Âu, Châu Á và Nam Mỹ 3. Tại Việt Nam, ung thư đại trực tràng có tỷ lệ mắc cao thứ 4 ở nam (sau ung thư phổi, gan, dạ dày) và cao thứ 5 ở nữ giới 4. Ung thư đại trực tràng là một loại bệnh ác tính ở đường tiêu hóa có nguồn gốc từ đại tràng hoặc trực tràng. Chúng thường được kết hợp với nhau do có nhiều đặc điểm chung về mặt sinh học và lâm sàng 5. Ung thư biểu mô tuyến là bệnh lý ác tính của đại trực tràng thường gặp nhất (lên đến 95% trường hợp), tiếp theo là các khối u carcinoid, khối u mô đệm đường tiêu hóa, u lympho và sarcoma 6. Ung thư biểu mô tuyến biệt hóa vừa là dạng thường gặp nhất (~ 70%) trong thực hành lâm sàng, trong khi ung thư biểu mô tuyến biệt hóa kém hoặc biệt hóa cao lần lượt chiếm 20% và 10% trường hợp 6. Ung thư đại trực tràng có thể không biểu hiện triệu chứng trong một thời gian dài đa số bệnh nhân, cho đến khi nó phát triển và lan rộng, do đó ảnh hưởng xấu đến tiên lượng. Ở những bệnh nhân có triệu chứng, bệnh có thể gây ra những thay đổi về nhu động ruột (ví dụ, tiêu chảy hoặc táo bón), cảm giác liên tục cần đi tiêu, chảy máu đại trực tràng ẩn, vi thể hoặc đại thể, cũng như khó chịu ở bụng, chuột rút, sụt cân không rõ nguyên nhân, yếu và mệt mỏi, đặc biệt ở bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối 5. Đa phần các cơ chế, nguyên nhân gây bệnh trong phần lớn các trường hợp CRC vẫn còn chưa được làm sáng tỏ. Tỷ lệ mắc CRC có thể ảnh hưởng bởi các yếu tố nguy cơ (ví dụ: béo phì, chế độ ăn kiêng…) và các yếu tố chẩn đoán (ví dụ: sàng lọc, dự phòng…) 7. Đề tài về ung thư đại trực tràng đã có từ 20 năm nay và hiện nay tình hình đã có nhiều thay đổi do đó viêc tìm hiểu được sự thay đổi, khác biệt của bệnh cảnh lâm sàng, các nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, dịch tễ, hình ảnh nội soi, đặc điểm mô bệnh học của ung thư đại trực tràng sẽ rất quan trọng trong việc cải thiện các nỗ lực trong phòng ngừa, sàng lọc và điều trị phù hợp trong quần thể bệnh nhân này. Với lý do trên đây chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, hình ảnh nội soi và mô bệnh học của ung thư đại trực tràng tại khoa tiêu hóa bệnh viện bạch mai từ năm 2019 đến 2020” với mục tiêu sau: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng, yếu tố nguy cơ và hình ảnh nội soi của ung thư đại trực tràng nguyên phát. 2. Đối chiếu hình thái tổn thương mô bệnh học của ung thư đại trực tràng nguyên phát và hình ảnh nội soi theo phân loại Paris.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/943
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21THS0024.pdf
  Restricted Access
2.01 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.