Please use this identifier to cite or link to this item:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/861
Title: | Đánh giá kết quả điều trị bước một của thuốc erlotinib trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ tại bệnh viện K |
Authors: | NGUYỄN THANH, HOA |
Advisor: | PGS.TS.LÊ VĂN, QUẢNG TS. ĐỖ HÙNG, KIÊN |
Keywords: | nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ |
Issue Date: | 2019 |
Publisher: | ĐH Y Hà Nội |
Abstract: | Ung thư phổi (UTP) là loại ung thư phổ biến và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư thường gặp nhất. Theo GLOBOCAN 2018, năm 2018 có 2.093.876 người mắc mới (chiếm 11.6%) và 1.761.007 (chiếm 18.4%) người tử vong do ung thư phổi [1]. Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và điều trị nhưng tỷ lệ sống thêm 5 năm với bệnh nhân ung thư phổi chỉ chiếm 4 - 17% tùy theo giai đoạn và sự khác biệt khu vực [2]. Tại Việt Nam, tỷ lệ tử vong hàng năm do UTP là 20.710 ca chiếm 19,2% số ca tử vong do ung thư nói chung [1]. Theo phân loại tổ chức y tế thế giới WHO, UTP được chia thành hai nhóm chính dựa trên đặc điểm mô bệnh học là ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm 85 - 90% và ung thư phổi tế bào nhỏ. Hai thể mô bệnh học này khác nhau cơ bản về phương pháp điều trị và tiên lượng bệnh [3]. Trong luận văn này chúng tôi chỉ đề cập đến UTPKTBN. Trong những năm gần đây, y học đã phát hiện được nhiều đích phân tử bệnh học tiềm năng trong ung thư phổi, thúc đẩy sự ra đời của các dược phẩm mới giúp ức chế hoạt động của chúng, kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng cuộc sống người bệnh, đó là chất ức chế hoạt chất tyrosine kinase (tyrosine kinase inhibitors TKIs) của thụ thể yếu tố phát triển biểu mô (epidermal growth factor recepter EGFR), được gọi là liệu pháp điều trị nhắm trúng đích. Có khoảng 10 - 50% bệnh nhân UTPKTBN có đột biến ở exon 18 - 21 cuả gen EGFR [4]. Các đột biến này tạo ra các protein EGFR có ái lực mạnh với thuốc điều trị đích, do đó các bệnh nhân UTPKTBN mang đột biến EGFR này thường có đáp ứng tốt với thuốc điều trị đích [5]. Trong các thử nghiệm lâm sàng việc sử dụng TKIs cho kết quả thời gian sống thêm không tiến triển (PFS) cao hơn có ý nghĩa thống kê so với hóa trị. Bên cạnh hiệu quả điều trị, độ an toàn của thuốc cũng được chứng minh so với hóa chất, khắc phục được hạn chế của dùng thuốc hóa chất là thiếu tính chọn lọc đặc hiệu từng cá thể và nhiều tác dụng không mong muốn ảnh hưởng đến liệu trình và hiệu quả điều trị. Hiện nay, các thuốc này đã được khuyến cáo trong các hướng dẫn thực hành trong nước và quốc tế cho bệnh nhân UTPKTBN giai đoạn muộn, tái phát, di căn có đột biến EGFR [6], [7]. Tại Việt Nam trong một vài năm gần đây, ngày càng có nhiều bệnh nhân được tiếp cận với thuốc điều trị nhắm trúng đích erlotinib ngay từ bước một, đã có một số báo cáo về hiệu quả điều trị của thuốc tuy nhiên được thực hiện trên nhóm bệnh nhân đã thất bại với hóa trị bước một hoặc đánh giá hiệu quả chung của các thuốc trong nhóm TKIs. |
URI: | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/861 |
Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
hoa _ung thu.doc Restricted Access | 6.64 MB | Microsoft Word |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.