Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/5231
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorPGS.TS Trần, Hiếu Học-
dc.contributor.authorChu, Mạnh Tường-
dc.date.accessioned2024-05-29T07:12:50Z-
dc.date.available2024-05-29T07:12:50Z-
dc.date.issued2024-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/5231-
dc.description.abstractSỏi túi mật là bệnh lý khá phổ biến trên thế giới, đặc biệt ở các nước Âu, Mỹ, và gặp nhiều ở nữ giới. Tại Mỹ, có khoảng 20 triệu người có sỏi túi mật (chiếm 10% dân số) và mỗi năm có thêm khoảng một triệu trường hợp mắc mới sỏi túi mật được phát hiện.1,2 Ở các nước Châu Âu, tỷ lệ sỏi túi mật chiếm 80 – 90% tổng số sỏi đường mật nói chung và thành phần cấu tạo sỏi thường là sỏi cholesterol.2–4 Tại Việt Nam bệnh lý sỏi túi mật có xu hướng gia tăng, chiếm từ 22 – 36% trong tổng số sỏi mật.2,5 Về điều trị bệnh lý sỏi túi mật, trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều phương pháp. Phẫu thuật cắt túi mật nội soi là một sự thay đổi đáng kể trong việc kiểm soát bệnh lý túi mật, đây là phẫu thuật được thực hiện gần như phổ biến nhất trong phẫu thuật đường tiêu hóa. Nó được coi là lựa chọn điều trị đầu tay trong điều trị bệnh lý sỏi túi mật. Phẫu thuật nội soi cắt túi mật thay thế phẫu thuật cắt túi mật mở là phương thức điều trị hàng đầu trong sỏi túi mật và viêm túi mật. Phẫu thuật này được thực hiện lần đầu tiên vào năm 1987 bởi Philippe Mouret tại cộng hòa Pháp. Ưu điểm của phương pháp phẫu thuật nội soi cắt túi mật là ít đau sau phẫu thuật, thời gian nằm viện ngắn hơn, phục hồi nhanh hơn, vấn đề thẩm mỹ được cải thiện, trở lại làm việc sớm, ít biến chứng như nhiễm trùng hay viêm dính, thời gian phẫu thuật ngắn hơn và vượt trội hơn so với các kỹ thuật khác vì lợi thế kinh tế. Nguy cơ chính liên quan đến cắt túi mật nội soi dường như là tỷ lệ tổn thương ống mật chủ cao hơn so với cắt túi mật mở, khoảng từ 0,3-0,8%. Ngoài ra, cũng có những rủi ro đối với các biến chứng khác như tổn thương mạch máu lớn, tổn thương ruột, rò đường mật và biến chứng do rơi sỏi mật 6. Tại Việt Nam, trường hợp phẫu thuật nội cắt túi mật nội soi đầu tiên đã được thực hiện bởi Nguyễn Tấn Cường tại bệnh viện Chợ Rẫy năm 1992 và nhanh chóng trở nên phổ biến. Hiện nay, phẫu thuật nội soi cắt túi mật được coi là “tiêu chuẩn” để điều trị bệnh lý sỏi túi mật, được thực hiện phổ biến tại các trung tâm ngoại khoa lớn và các bệnh viện tuyến tỉnh, thậm chí là các bệnh viện huyện, bệnh viện tư nhân lớn nhờ những ưu điểm không thể phủ nhận được như ít đau sau mổ, giảm tỉ lệ tắc ruột sau mổ, đảm bảo tính thẩm mĩ, thời gian nằm viện ngắn hơn, thời gian phục hồi sau mổ nhanh hơn, tránh được các biến chứng sau mổ do nằm lâu. Tại bệnh viện Bãi Cháy phẫu thuật cắt túi mật nội soi đã trở thành thường quy trong quản lý bệnh lý sỏi túi mật. Các số liệu nghiên cứu về cắt túi mật nội soi tại các tuyến trung ương là khá đầy đủ, tuy nhiên tại tuyến tỉnh thì còn thiếu cơ sở dữ liệu để đánh giá kết quả của phẫu thuật này. Chính vì thế, để đánh giá hiệu quả điều trị phẫu thuật cắt túi mật nội soi tại bệnh viện Bãi Cháy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Kết quả phẫu thuật nội soi cắt túi mật do sỏi tại bệnh viện Bãi Cháy 2017 - 2022”vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherTrường Đại học Y Hà Nộivi_VN
dc.subjectPHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TÚI MẬT DO SỎIvi_VN
dc.titleKẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT TÚI MẬT DO SỎI TẠI BỆNH VIỆN BÃI CHÁY 2017 - 2022vi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
Luận văn CKII - Tường.docx
  Restricted Access
848.24 kBMicrosoft Word XML
Luận văn CKII - Tường.pdf
  Restricted Access
1.14 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.