Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3487
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorPGS. TS., PHẠM ĐỨC HUẤN-
dc.contributor.advisorTS., NGUYỄN HOÀNG-
dc.contributor.authorNGUYỄN, NAM KHÁNH-
dc.date.accessioned2022-02-23T07:06:42Z-
dc.date.available2022-02-23T07:06:42Z-
dc.date.issued2020-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3487-
dc.description.abstractUng thư đại trực tràng là một ung thư thường gặp, đứng thứ 3 về tỉ lệ mới mắc và đứng thứ 2 về tỉ lệ tử vong của các ung thư nói chung trên toàn thế giới. Theo Globocan 2018, nước ta có khoảng 14,300 ca mới mắc được chẩn đoán, trong đó ung thư đại tràng khoảng 5,500 ca và ung thư trực tràng khoảng 8,800 ca, trong đó ung thư đại tràng phải chiếm tỉ lệ 20.88%, đại tràng sigma 29.67%, manh tràng 15.48%, đại tràng ngang 14.2%, đại tràng trái 16.48%. Tỷ lệ sống thêm 5 năm của các bệnh nhân ung thư đại tràng được điều trị ở nước ta trung bình là 50% tính chung cho các loại, nhưng nếu phát hiện sớm (giai đoạn I), tỷ lệ này là 90- 95%1,2. Phẫu thuật là biện pháp điều trị triệt căn duy nhất cho ung thư đại tràng phải tại chỗ, hóa trị bổ trợ được chỉ định cho bệnh nhân có di căn hạch. Phẫu thuật, hóa trị là những thành phần cốt lõi của liệu pháp điều trị đa mô thức. Đã có nhiều tiến bộ đáng kể trong điều trị ung thư đại tràng phải di căn trong những năm gần đây đặc biệt là liệu pháp miễn dịch và điều trị đích3. Từ những năm đầu thập niên 1990 với sự phát triển của phẫu thuật nội soi ổ bụng, phẫu thuật nội soi điều trị ung thư đại trực tràng nói chung và ung thư đại tràng phải nói riêng bắt đầu được áp dụng rộng rãi ở khắp các trung tâm ngoại khoa trên thế giới, với những ưu điểm đã được chứng minh như ít gây thương tổn thành bụng, ít đau sau mổ, giảm tỷ lệ biến chứng, thời gian phục hồi lưu thông tiêu hóa nhanh hơn, giảm thoát vị thành bụng, rút ngắn thời gian nằm viện, và có tính thẩm mỹ cao3–5. Tại Việt Nam phẫu thuật nội soi áp dụng cho điều trị ung thư đại trực tràng bắt đầu từ năm 2000, được thực hiện tại một số bệnh viện lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Huế, cho kết quả rất khả quan. Vấn đề đáp ứng yêu cầu về điều trị ung thư học đối với ung thư đại tràng phải khi so sánh giữa phẫu thuật nội soi và mổ mở thấy tương đương nhau ở nhiều kết quả của nhiều nghiên cứu6–9. Ở nước ta, PTNS cắt đại tràng phải điều trị ung thư biểu mô đại tràng đã được áp dụng từ lâu tại các bệnh viện trường đại học và các trung tâm phẫu thuật nội soi. Nhằm đáp ứng yêu cầu tiếp tục nghiên cứu ứng dụng và đánh giá kết quả, biến chứng sau mổ, tỉ lệ sống thêm, tỉ lệ tái phát cũng như các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, của nhóm bệnh nhân này, chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại hai bệnh viện là Bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức với đề tài: “Kết quả phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải điều trị ung thư biểu mô đại tràng” với hai mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của nhóm bệnh nhân được phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải điều trị ung thư biểu mô đại tràng. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi cắt đại tràng phải điều trị ung thư biểu mô đại tràng.vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherTrường Đại học Y Hà Nộivi_VN
dc.subjectNGOẠI KHOAvi_VN
dc.subjectphẫu thuật nội soivi_VN
dc.subjectcắt đại tràngvi_VN
dc.subjectung thư biểu môvi_VN
dc.titleKẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI CẮT ĐẠI TRÀNG PHẢI ĐIỀU TRỊ UNG THƯ BIỂU MÔ ĐẠI TRÀNGvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
20THS3055.pdf
  Restricted Access
1.98 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.