Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3220
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorHoàng Anh, Tuấn-
dc.contributor.authorNGUYỄN THỊ, THỦY-
dc.date.accessioned2021-12-21T04:45:08Z-
dc.date.available2021-12-21T04:45:08Z-
dc.date.issued2020-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/3220-
dc.description.abstractTổn thương tế bào hắc tố là thuật ngữ chỉ sự tăng sinh tế bào hắc tố một cách bất thường. Điều này có thể dẫn đến một tổn thương có sắc tố hoặc không có sắc tố, phụ thuộc vào các tế bào hắc tố có tăng sản xuất melanin hay không chứ không phụ thuộc vào số lượng của chúng. Tổn thương tế bào hắc tố hay gặp nhất ở da nhưng nó cũng xuất hiện ở kết mạc mắt cũng như một số niêm mạc khác. Tổn thương tế bào hắc tố ở kết mạc (Conjunctival melanocytic lesion - CML) chiếm khoảng 50% tổng số u ở kết mạc.1,2 CML bao gồm các tổn thương lành tính (Nốt ruồi), tiền ung thư (Bệnh tăng sinh hắc tố bào nguyên phát mắc phải - Primary acquired melanosis - PAM) hay tổn thương ác tính (U hắc tố ác tính kết mạc – UHTAT).1,3 Trong đó nốt ruồi là phổ biến nhất, chiếm khoảng hơn 50% các CML và dưới 1% trong số chúng tiến triển thành ác tính. PAM chiếm khoảng 20% các CML, nhưng có tới gần 50% trong số chúng tiến triển thành UHTAT. U hắc tố ác tính ở kết mạc chiếm khoảng 25% trong các CML. Tỷ lệ mắc của UHTAT khoảng 0,8/1.000.000 người da trắng, 0,2/1.000.000 người da vàng hoặc da đen và đang có dấu hiệu gia tăng. Ở người da trắng, bệnh gặp ở nam và nữ với tỷ lệ xấp xỉ nhau. Nhìn chung, bệnh nhân mắc CML lành tính có độ tuổi trẻ hơn bệnh nhân mắc CML ác tính. Việt Nam nằm trong vùng địa lý có tỷ lệ mắc CML thấp. Theo một nghiên cứu của Lê Kim Lan, từ năm 1996-2006 có 58 bệnh nhân được chẩn đoán là CML, trong đó 37 bệnh nhân được chẩn đoán là nốt ruồi, 21 bệnh nhân được chẩn đoán là UHTAT và chưa thấy đề cập đến các bệnh nhân được chẩn đoán là PAM.4 Do tỷ lệ ít gặp của bệnh nên ở Việt Nam có rất ít nghiên cứu về CML. Một vài nghiên cứu liên quan cũng chỉ điểm qua các loại CML. Trong khi đó không phải tất cả CML đều có màu sắc đặc trưng của hắc tố nên trên lâm sàng có thể chẩn đoán nhầm dẫn đến điều trị bước đầu chưa phù hợp. Bên cạnh đó, các nốt ruồi kết mạc thường kèm theo nang vùi biểu mô kết mạc, khi nang phát triển làm kích thước nốt ruồi to nhanh nên đôi khi cả bác sĩ và bệnh nhân có thể nghi ngờ là tổn thương ác tính. Vì vậy việc chẩn đoán chính xác loại tổn thương, đặc biệt là về mặt mô bệnh học của các tổn thương lành tính, tiền ung thư và ung thư là vô cùng cần thiết để quyết định phương pháp điều trị phù hợp và theo dõi bệnh nhân sau điều trị. Với những lý do trên, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm mô bệnh học tổn thương hắc tố bào kết mạc nguyên phát” với các mục tiêu sau: 1. Mô tả đặc điểm mô bệnh học tổn thương hắc tố bào kết mạc nguyên phát 2. Đối chiếu đặc điểm mô bệnh học với một số đặc điểm lâm sàng ở nhóm bệnh nhân nghiên cứuvi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherTRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘIvi_VN
dc.subjectGiải Phẫu Bệnhvi_VN
dc.titleNGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MÔ BỆNH HỌC TỔN THƯƠNG HẮC TỐ BÀO KẾT MẠC NGUYÊN PHÁTvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
0860. LV Thạc sĩ - Thủy GPB 43 sau bao ve.pdf
  Restricted Access
4.66 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.