Please use this identifier to cite or link to this item:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2764
Full metadata record
DC Field | Value | Language |
---|---|---|
dc.contributor.advisor | PGS.TS. HỒ, SỸ HÙNG | - |
dc.contributor.author | LÊ, VĂN ĐẠT | - |
dc.date.accessioned | 2021-12-07T08:49:31Z | - |
dc.date.available | 2021-12-07T08:49:31Z | - |
dc.date.issued | 2020 | - |
dc.identifier.uri | http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2764 | - |
dc.description.abstract | Vô sinh luôn là vấn đề nhận được nhiều quan tâm trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tỷ lệ vô sinh trên thế giới từ 10 – 18%, tại Việt Nam tỷ lệ này là 7,7% các cặp vợ chồng, tương đương với 1 triệu cặp vợ chồng1. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (HTSS) ngày càng phát triển giúp điều trị thành công cho nhiều cặp vô sinh. Điều đó vừa mang ý nghĩa nhân đạo vừa là một phần quan trọng của chương trình chăm sóc sức khỏe. Trong năm 2012 ước tính có đến 5 triệu trẻ được sinh ra nhờ các kỹ thuật HTSS. Trong đó thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) là phương pháp cuối cùng đối với các trường hợp vô sinh lâu năm, điều trị không kết quả và khoảng 1,5 triệu chu kỳ IVF được thực hiện mỗi năm trên toàn cầu2. Song song với sự phát triển của các kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là các kỹ thuật khác liên quan trong đó có kích thích buồng trứng (KTBT) nhằm mang lại kết quả cao cho các kỹ thuật HTSS. Tuy nhiên bên cạnh những thành công, một biến chứng có thể xảy ra thường gặp đó là quá kích buồng trứng (QKBT), đặc biệt ở những bệnh nhân dùng thuốc KTBT trong các chu kỳ IVF. Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu xác định một vài yếu tố liên quan đến nguy cơ QKBT ở bệnh nhân áp dụng các kỹ thuật HTSS và đưa ra giá trị ngưỡng cho từng yếu tố để dự đoán nguy cơ QKBT. Tuy nhiên giá trị ngưỡng mà các nghiên cứu đưa ra còn khác nhau nhiều và chưa có tính thống nhất, hơn nữa giá trị ngưỡng này được tính chung cho nhiều nguyên nhân vô sinh vì vậy độ đặc hiệu chưa cao, chưa thể hiện rõ được mối quan hệ giữa các yếu tố nguy cơ và QKBT ở các nhóm bệnh nhân có đặc điểm riêng. Trong nhóm các nguyên nhân vô sinh thì hội chứng buồng trứng đa nang (BTĐN) là một nguyên nhân thường gặp, vì vậy với mong muốn làm rõ và xác giá trị ngưỡng trong tiên lượng QKBT của các yếu tố tiên lượng này ở nhóm bệnh nhân có và không có buồng trứng đa nang chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Giá trị ngưỡng của AMH và AFC trong tiên lượng quá kích buồng trứng ở bệnh nhân có và không có hội chứng buồng trứng đa nang trong hỗ trợ sinh sản” với hai mục tiêu sau: 1. Xác định tỷ lệ quá kích buồng trứng sớm ở mỗi nhóm bệnh nhân có và không có hội chứng buồng trứng đa nang trong hỗ trợ sinh sản. 2. Xác định giá trị ngưỡng của chỉ số AMH và AFC trong tiên đoán hội chứng quá kích buồng trứng sớm của bệnh nhân có và không có hội chứng buồng trứng đa nang điều trị hỗ trợ sinh sản. | vi_VN |
dc.language.iso | vi | vi_VN |
dc.publisher | Đại học Y Hà Nội | vi_VN |
dc.subject | Sản phụ khoa | vi_VN |
dc.title | Giá trị ngưỡng của AMH và AFC trong tiên lượng quá kích buồng trứng ở bệnh nhân có và không có hội chứng buồng trứng đa nang trong hỗ trợ sinh sản | vi_VN |
dc.type | Thesis | vi_VN |
Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
2020THS0900.pdf Restricted Access | 1.73 MB | Adobe PDF | Sign in to read |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.