Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2747
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorTS.BSCKII. ĐỖ, TUẤN ANH-
dc.contributor.authorCHU, NHẬT MINH-
dc.date.accessioned2021-12-07T08:45:02Z-
dc.date.available2021-12-07T08:45:02Z-
dc.date.issued2020-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2747-
dc.description.abstractRò mật là hậu quả của sự tổn thương thành đường mật, phần lớn xảy ra do biến chứng của phẫu thuật. Hay gặp sau phẫu thuật cắt túi mật, cắt gan và ghép gan, phẫu thuật điều trị nang gan, sau chấn thương và vết thương gan. Rò mật còn do nguyên nhân sót sỏi ở ống mật chủ sau mổ sỏi đường mật. Ngoài ra, rò mật cũng có thể gặp sau sinh thiết gan, sau thủ thuật tạo shunt cửa chủ trong gan, các thủ thuật điều trị u gan ít xâm hại như dùng sóng cao tần, nút mạch gan1. Trong vài thập kỷ nay, phẫu thuật cắt túi mật nội soi phát triển rộng rãi và đang dần thay thế cho phẫu thuật cắt túi mật mở kinh điển. Phẫu thuật cắt túi mật nội soi, so với phẫu thuật mở kinh điển, ít gây đau sau mổ hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn, gần như không để lại sẹo mổ. Tuy nhiên, phẫu thuật cắt túi mật nội soi có nguy cơ gây tổn thương đường mật cao hơn với tỷ lệ 0,2- 0,5% ở phẫu thuật mở so với 0,5-2,7% ở phẫu thuật cắt túi mật nội soi2. Tổn thương thường có nguyên nhân do nhận định hạn chế về giải phẫu hoặc do cố gắng cầm máu ở rốn gan; ngoài ra còn do hậu quả của sự thiếu máu của đường mật. Tình trạng viêm của túi mật, trình độ của bác sỹ mổ cũng được coi là yếu tố nguy cơ của tổn thương2. Rò mật sau mổ không phải là biến chứng khó về mặt chẩn đoán xác định, nhưng khó về mặt chẩn đoán vị trí của thương tổn đường mật và lựa chọn phương pháp điều trị. Thời gian điều trị kéo dài và có thể để lại di chứng nặng nề như xơ hoá, chít hẹp đường mật, nhiễu trùng trong ổ bụng kéo dài, xơ gan, suy kiệt…. Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật, các thủ thuật xâm lấn tối thiểu như nội soi và điện quang can thiệp đã dần thay thế phẫu thuật, là lựa chọn đầu tiên trong việc điều trị phần lớn các trường hợp rò mật sau mổ1. Cơ chế của điều trị nội soi là làm giảm áp lực trong đường mật, giúp mật chảy theo đường tự nhiên, giảm dần lượng mật chảy qua đường rò, tạo điều kiện cho đường rò tự lành. Phẫu thuật là lựa chọn điều trị cho những trường hợp rò lớn, hoặc thủ thuật nội soi kết hợp điện quang thất bại.1 Bệnh viện Việt Đức là một cơ sở đào tạo hàng đầu về ngoại khoa và phẫu thuật nội soi, và là tuyến cuối của ngoại khoa ở miền Bắc. Phẫu thuật nội soi được áp dụng cho các bệnh lý về gan mật đã từ hơn 2 thập kỷ. Những năm gần đây số lượng bệnh nhân được chẩn đoán rò mật sau mổ tăng dần do phẫu thuật cắt túi mật nội soi đã được triển khai ở tuyến huyện ở một số tỉnh thành. Các thủ thuật can thiệp ít xâm lấn cũng đã được áp dụng vào việc điều trị tổn thương rò mật sau mổ từ lâu nhưng chưa có nghiên cứu đánh giá cụ thể. Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Kết quả điều trị rò mật sau mổ bằng nội soi đường mật ngược dòng tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức” với các mục tiêu như sau: 1. Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và hình thái tổn thương rò mật sau mổ được điều trị bằng nội soi đường mật ngược dòng tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức. 2. Đánh giá kết quả điều trị rò mật sau mổ bằng nội soi đường mật ngược dòng tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức.vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherĐại học Y Hà Nộivi_VN
dc.subjectNgoại - Gan mậtvi_VN
dc.titleKết quả điều trị rò mật sau mổ bằng nội soi đường mật ngược dòng tại bệnh viện hữu nghị Việt Đứcvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020CKII0042.pdf
  Restricted Access
2.31 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.