Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2613
Full metadata record
DC FieldValueLanguage
dc.contributor.advisorTS. Võ, Văn Xuân-
dc.contributor.authorĐỒNG, VĂN HƯỞNG-
dc.date.accessioned2021-12-06T08:02:51Z-
dc.date.available2021-12-06T08:02:51Z-
dc.date.issued2020-
dc.identifier.urihttp://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/2613-
dc.description.abstractUng thư nội mạc tử cung (NMTC) thuộc ung thư đường sinh dục nữ, bệnh thường gặp 70% ở phụ nữ sau mãn kinh, 25% tiền mãn kinh và 5% trong độ tuổi sinh đẻ. Tại Việt Nam, ung thư nội mạc tử cung có tỷ lệ mắc mới là 2,5/100.000 dân, tỷ lệ tử vong là 1,0/100.000 dân, đứng hàng thứ 11 và chiếm 6-8% trong các loại ung thư ở nữ giới. Trong những năm gần đây, tỷ lệ mắc bệnh này có xu hướng gia tăng ở Việt Nam.1 Trên thế giới, theo thống kê năm 2019 có khoảng 382.069 ca ung thư nội mạc tử cung mới mắc và 89.929 ca tử vong, thường gặp ở phụ nữ da trắng ở các nước Bắc Mỹ và Châu Âu. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ năm 2019, tỷ lệ mới mắc là 20,1/100.000 dân và có khoảng 65.620 trường hợp mới mắc và 12.590 ca tử vong, độ tuổi trung bình là 60 tuổi.2 Nguy cơ ung thư nội mạc tử cung cao ở những người mất cân bằng Estrogen, điều trị nội tiết thay thế bằng Estrogen, những người có kinh sớm (trước 12 tuổi) và mãn kinh muộn (sau 50 tuổi), không sinh con, béo phì, chế độ ăn nhiều mỡ động vật, mắc bệnh tăng huyết áp, đái tháo đường, mắc ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, dùng thuốc Tamoxifen điều trị ung thư vú...Các yếu tố có tác dụng phòng bệnh đó là điều chỉnh chế độ ăn uống (tăng cường ăn rau quả, giảm chất béo động vật), duy trì cân nặng hợp lý, dùng thuốc tránh thai hay thuốc nội tiết thay thế có Progestin có thể làm giảm nguy cơ mắc bệnh. Ung thư nội mạc tử cung đa phần được chẩn đoán ở giai đoạn còn khu trú, chưa lan ra khỏi thân tử cung nên điều trị chủ yếu là phẫu thuật với giai đoạn tiến triển tại chỗ. Ung thư nội mạc tử cung có tiên lượng tương đối tốt, song nhóm bệnh nhân có độ mô học cao vẫn có tỷ lệ tái phát cao.Xạ trị đã được sử dụng để điều trị bổ trợ sau phẫu thuật hơn 50 năm qua, hiệu quả đã được chứng minh là kiểm soát tại chỗ và giảm tỷ lệ tái phát tại mỏm cụt âm đạo đối với các trường hợp có yếu tố nguy cơ trung bình đến cao.3 Carien L và cs công bố xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật ung thư nội mạc tử cung giai đoạn I làm giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ, tại vùng.4 Henry M. và cs công bố xạ trị bổ trợ sau phẫu thuật đối với ung thư nội mạc tử cung nguy cơ trung bình, giai đoạn sớm làm giảm nguy cơ tái phát.5 Roberts JA và cs công bố tỷ lệ sống thêm không tái phát cao hơn có ý nghĩa giữa nhóm bệnh nhân ung thư nội mạc tử cung giai đoạn I, II được xạ trị so với nhóm phẫu thuật đơn thuần.6 Hiện nay, ung thư nội mạc tử cung ngày càng được phát hiện sớm hơn nên các nghiên cứu thường tập trung vào các đối tượng bệnh nhân ở giai đoạn I, II và chủ yếu là phẫu thuật. Tuy nhiên, việc đánh giá kết quả xạ trị sau phẫu thuật chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ. Vì vậy, nhằm đưa ra một bức tranh mới nhất về tình hình xạ trị sau phẫu thuật ung thư nội mạc tử cung giai đoạn IB, II, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả xạ trị sau phẫu thuật ung thư nội mạc tử cung giai đoạn FIGO IB - II” nhằm 2 mục tiêu sau: 1. Mô tả một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ung thư nội mạc tử cung giai đoạn IB - II tại bệnh viện K từ 2017 - 2019. 2. Đánh giá kết quả xạ trị và một số tác dụng phụ của nhóm bệnh nhân trên.vi_VN
dc.language.isovivi_VN
dc.publisherĐại học Y Hà Nộivi_VN
dc.subjectUng thưvi_VN
dc.titleĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XẠ TRỊ SAU PHẪU THUẬT UNG THƯ NỘI MẠC TỬ CUNGvi_VN
dc.typeThesisvi_VN
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020CKII0106.pdf
  Restricted Access
2.17 MBAdobe PDFbook.png
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.