Please use this identifier to cite or link to this item:
http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1592
Title: | TÌM HIỂU MỘT SỐ BIẾN CHỨNG SỚM CỦA THỦ THUẬT CẤY MÁY TẠO NHỊP VĨNH VIỄN VÀ NHỮNG YẾU TỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CÁC BIẾN CHỨNG ĐÓ |
Authors: | NGUYỄN THỊ, HIỀN |
Advisor: | Trần Song, Giang |
Keywords: | Tim mạch |
Issue Date: | 2020 |
Publisher: | TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI |
Abstract: | Máy tạo nhịp đầu tiên được giới thiệu cho cộng đồng Y khoa vào năm 1955 là máy tạo nhịp ngoài PM65, chiếc máy này dùng nguồn điện cắm từ ngoài và kích thước lớn hơn chiếc lò vi sóng. Đến năm 1958 máy tạo nhịp (MTN) đầu tiên được cấy trên bệnh nhân tại Stockholm- Thụy Điển bởi bác sỹ Ake Senning, chiếc máy đầu tiên chỉ có đời sống pin trong 3 tháng, và sau đó bệnh nhân phải thay máy rất nhiều lần1. Dù những năm qua, chỉ định cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn (MTNVV) được mở rộng cho nhiều bệnh lý khác nhau nhưng những chỉ định kinh điển là suy nút xoang và block nhĩ thất vẫn là phổ biến nhất2. Đầu những năm 2010 ở nước ta chỉ định tạo nhịp hàng đầu là block nhĩ thất, sau đó đến bệnh lý nút xoang 3. Sự già hóa của dân số, sự tiến bộ của kỹ thuật và các thế hệ MTN, sự ra tăng các chỉ định lâm sàng làm tỷ lệ cấy ghép MTN tăng lên nhanh chóng. Tại Mỹ: Từ năm 1992 đến 2009 đã có 2,9 triệu MTNVV được cấy ghép được cấy4. Trong những năm gần đây, ước tính mỗi năm có khoảng 1.2 triệu MTN được cấy ghép trên thế giới. Trong năm 2016 khoảng 500.000 máy được cấy ghép ở Châu Âu và 37.466 máy được cấy ghép ở Tây Ban Nha 5. Tại Việt Nam MTN đầu tiên được cấy ghép từ những năm 1973 bởi các bác sỹ tại BV Bạch Mai và Việt Đức. Trong khoảng 12 năm từ 1999- 2011 tại BV Chợ Rẫy đã tiến hành cấy 1250 MTN6, trong những năm gần đây trung bình tại VTMQGVN khoảng 600 máy/ năm. Lợi ích của MTN mang lại là rất lớn giúp giảm tỷ lệ tử vong và nâng cao chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân có chỉ định cấy máy. Nhưng bên cạnh đó người bệnh phải đối mặt với những biến chứng của thủ thuật, những biến chứng này bao gồm những BC liên quan đến thủ thuật cấy máy như tràn khí, tràn máu màng phổi, bầm tím,tụ máu, nhiễm trùng, thủng tim…và BC do MTN như loạn nhịp tim, hội chứng máy tạo nhịp, bật điện cực, block đường thoát 7,8. Những biến chứng này có thể xuất hiện ngay trong quá trình làm thủ thuật đặc biệt là những rối loạn nhịp phức tạp như nhịp nhanh thất, rung thất, vô tâm thu8… có thể ảnh hưởng đến tính mạng của bệnh nhân. Tại Việt Nam đã có nhiều những nghiên cứu MTN nhưng chủ yếu về hoạt động của máy, chỉ định cấy máy, kỹ thuật cấy máy và hiệu quả huyết động của phương pháp cấy máy, có một số nghiên cứu có đề cập đến BC của thủ thuật như nghiên cứu của Tạ Tiến Phước (2005), nghiên cứu của Huỳnh Văn Minh tại bệnh viện Chợ Rẫy (2013), nhưng cũng chỉ đề cập 1 phần rất nhỏ đến BC của thủ thuật, chưa phân tích các yếu tố liên quan đến BC, nghiên cứu của Đỗ Nguyên Tín (2011) cũng đề cập đến BC tạo nhịp vĩnh viễn và 1 số yếu tố liên quan nhưng trên đối tượng là trẻ em. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Tìm hiểu một số biến chứng sớm của thủ thuật cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn và những yếu tố có liên quan đến các biến chứng đó” với 2 mục tiêu: 1. Tìm hiểu những biến chứng sớm của thủ thuật cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn tại Viện Tim mạch Quốc gia Việt Nam. 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến biến chứng sớm của thủ thuật cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn. |
URI: | http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1592 |
Appears in Collections: | Luận văn thạc sĩ |
Files in This Item:
File | Description | Size | Format | |
---|---|---|---|---|
20THS1013.pdf Restricted Access | 1.75 MB | Adobe PDF | Sign in to read |
Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.