Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1484
Title: ĐáNH GIá KếT QUả HóA TRị TOPOTECAN ĐƠN CHấT TRÊN BệNH NHÂN UNG THƯ Cổ Tử CUNG TáI PHáT, DI CĂN THấT BạI VớI PLATIN
Authors: VŨ THỊ THU, THẢO
Advisor: TS. Lê Thanh, Đức
Keywords: Ung thư;8720108
Issue Date: 2020
Publisher: ĐHY
Abstract: Ung thư cổ tử cung (UTCTC) là ung thư phổ biến thứ 4 ở phụ nữ trên toàn thế giới và là một trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu do ung thư ở các nước đang phát triển.1 Năm 2018, theo ước tính của Globocan có 569.847 ca mới mắc và 311.365 người tử vong (chiếm 7,5% tổng số ca tử vong do ung thư ở phụ nữ).1 Trong 30 năm qua người ta đã giảm được 70% tỷ lệ tử vong do UTCTC nhờ hiệu quả của phương pháp sàng lọc phát hiện sớm bằng PAP test. Mặc dù biết rõ hiệu quả của PAP test trong phòng chống UTCTC nhưng đây vẫn là vấn đề còn gặp nhiều khó khăn ở các nước đang phát triển. Tại Việt Nam, ung thư cổ tử cung đứng thứ tư sau ung thư vú, ung thư đại trực tràng và ung thư phổi với tỷ lệ mắc chuẩn theo tuổi (ASR) là 4,8/100.000 dân/năm.2 UTCTC có thể điều trị bằng nhiều phương pháp như phẫu thuật, xạ trị, hóa trị. Tuy nhiên khi bệnh nhân (BN) được điều trị triệt căn vẫn có một tỷ lệ bệnh tái phát, di căn. Đối với bệnh tái phát tại chỗ không thể phẫu thuật, xạ trị được hoặc di căn xa đa ổ, hóa trị là phương pháp được lựa chọn.3 Phác đồ đa hóa chất chứa platin có tỷ lệ đáp ứng cao, khả năng dung nạp thuốc tốt, vượt trội so với phác đồ khác nên được coi là phác đồ chuẩn cho điều trị bước 1.4 Thêm bevacizumab vào phác đồ này giúp kéo dài thời gian sống thêm không tiến triển và thời gian sống thêm toàn bộ của BN có ý nghĩa thống kê.5 Trường hợp thất bại sau hóa trị bước 1, hóa trị tiếp theo nên dùng đơn chất hơn phác đồ kết hợp thuốc. Lựa chọn hóa chất đơn trị phụ thuộc vào từng cá thể BN, hóa chất đã điều trị bước 1, độc tính của hóa chất bước 2. Đối với những BN đã thất bại với platin ở bước 1, một số hóa chất đơn trị thường được sử dụng trong điều trị và chứng minh có hiệu quả cải thiện triệu chứng bao gồm pemetrexed, paclitaxel, irinotecan, topotecan, vinorelbine, ifosfamide, bevacizumab , pembrolizumab. Tỷ lệ đáp ứng đối với mỗi phác đồ dao động trong khoảng từ 13,7% đến 25%, không có phác đồ nào được xem là thực sự vượt trội so với phác đồ khác. 6,7,8,2 Những lợi ích lâm sàng của topotecan trong điều trị bước 2 UTCTC tái phát, di căn đã được chứng minh qua 2 thử nghiệm lâm sàng pha II GOG 127-U và GOG 127-F.9, 10 Tuy tỷ lệ đáp ứng không vượt trội nhưng độc tính trên hệ tạo huyết và ngoài hệ tạo huyết có thể chấp nhận được mà không ảnh hưởng đến liều điều trị và chất lượng sống của BN. Hiện nay, ở Bệnh viện K mặc dù đã áp dụng rộng rãi tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả cũng như khả năng dung nạp phác đồ topotecan trong điều trị UTCTC tái phát, di căn xa trên BN đã thất bại với platin. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành đề tài:“Đánh giá kết quả hóa trị topotecan đơn chất trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung tái phát, di căn thất bại với platin” với hai mục tiêu: 1. Đánh giá kết quả điều trị của phác đồ topotecan trên bệnh nhân ung thư cổ tử cung tái phát, di căn thất bại với platin. 2. Nhận xét tác dụng không mong muốn của phác đồ topotecan trên nhóm bệnh nhân nghiên cứu.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1484
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0322.pdf
  Restricted Access
2.27 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.