Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1399
Title: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ XẠ TRỊ ĐIỀU BIẾN LIỀU KẾT HỢP HÓA TRỊ ĐỒNG THỜI UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN IIIB TẠI BỆNH VIỆN K
Authors: TRỊNH HÙNG, SƠN
Advisor: VÕ VĂN, XUÂN
Keywords: Ung thư
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Ung thư phổi nguyên phát (UTPNP) hiện là loại ung thư thường gặp trên thế giới. Theo Globocan 2018, UTPNP đứng đầu về tỷ lệ mắc và tử vong trên toàn thế giới với 2,094 triệu ca mắc mới (chiếm 11,6%) và 1,8 triệu ca tử vong (chiếm 18,4%) 1. Tại Việt Nam, UTPNP đứng hàng thứ 2 ở nam, thứ 3 ở nữ về tỷ lệ mắc mới được ghi nhận năm 2018 và là nguyên nhân gây tử vong do ung thư đứng hàng thứ 2. Những thống kê này cho thấy UTPNP thực sự là gánh nặng cho ngành y tế và toàn xã hội. Ung thư phổi được chia thành hai loại chính là ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) chiếm khoảng 85% và ung thư phổi tế bào nhỏ chiếm khoảng 10 - 15% 2. Nếu UTPKTBN được chẩn đoán ở giai đoạn sớm (I/II), phẫu thuật là lựa chọn thích hợp nhất với tỉ lệ sống còn 5 năm từ 75 – 80% 3. Tuy nhiên, trên thực tế lâm sàng hiện nay ở Việt Nam, UTPNP hầu hết được phát hiện khi đã ở giai đoạn tiến triển. Ở giai đoạn này tỉ lệ sống còn 5 năm chỉ tử 10 – 15% 4. Với những bệnh nhân không còn chỉ định phẫu thuật, có nhiều phương pháp điều trị được đưa ra nghiên cứu như xạ trị đơn thuần, hóa trị đơn thuần... Với UTPKTBN tiến triển tại chỗ tại vùng không còn khả năng PT, hóa xạ trị kết hợp đồng thời hay tuần tự là những lựa chọn tiêu chuẩn hiện nay. Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy hóa xạ trị cải thiện rõ rệt kết quả sống thêm so với xạ trị đơn thuần. HXTĐT với kĩ thuật xạ trị 3D-CRT làm giảm nguy cơ tử vong tương đối đến 16%, tăng tuyệt đối tỉ lệ sống còn sau 3 năm lên 5,7% và tỉ lệ sống còn 5 năm lên đến 4,5% so với hóa-xạ trị tuần tự 5. Hiện nay, hóa-xạ trị đồng thời với kĩ thuật xạ trị điều biến liều IMRT/VMAT được xem là một trong những lựa chọn cho nhóm bệnh lý này trong các hướng dẫn thực hành lâm sàng của Hội Ung bướu nội khoa châu Âu (ESMO) và Mạng lưới quản lý ung thư toàn diện quốc gia Hoa Kỳ (NCCN). Gần đây, các nghiên cứu đa quốc gia, đa trung tâm của châu Âu và Hoa kỳ ghi nhận việc sử dụng các thuốc hóa trị thế hệ mới như phối hợp bộ đôi Paclitaxel-Carboplatin trong HXTĐT cho thấy kết quả sống còn khả quan và mức độ độc tính tương đối thấp hơn so với các phác đồ hóa trị có Cisplatin. Tại châu Á, Paclitaxel-Carboplatin cũng được xem là một trong những phác đồ hóa trị được khuyến khích lựa chọn cho các thử nghiệm lâm sàng về phối hợp HXTĐT của nhóm ung bướu lồng ngực Tây Nhật Bản. Tại Việt nam, việc áp dụng hóa-xạ trị đồng thời kết hợp giữa hóa trị phác đồ Paclitaxel-Carboplatin với xạ trị điều biến liều (IMRT) ngày càng phổ biến trong những năm gần đây, tuy nhiên, chưa có báo cáo nào về hiệu quả điều trị cũng như tác dụng không mong muốn của phác đồ điều trị trên. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu đề tài: “Đánh giá kết quả xạ trị điều biến liều kết hợp hóa trị đồng thời ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB tại bệnh viện K” với hai mục tiêu sau: 1. Nhận xét một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB từ 01/09/2017 đến 31/10/2020 tại BV K. 2. Đánh giá kết quả và một số tác dụng không mong muốn của xạ trị điều biến liều kết hợp hóa trị đồng thời Paclitaxel – Carboplatin hàng tuần ở bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn IIIB.  
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1399
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21CKII0257.pdf
  Restricted Access
1.47 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.