Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1352
Title: NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG VÀ XỬ TRÍ CHỬA NGOÀI TỬ CUNG TỪ LẦN 2 TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN HÀ NỘI
Authors: TRẦN TRUNG, KIÊN
Advisor: ĐẶNG THỊ MINH, NGUYỆT
Keywords: Sản phụ khoa
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Chửa ngoài tử cung (CNTC) là một bệnh lý phụ khoa hay gặp và là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến tử vong mẹ trong giai đoạn sớm của thai kỳ. Đây là một bệnh thường gặp có thể xảy ra ở các lứa tuổi từ dậy thì tới lúc mãn kinh. Bệnh mang tính chất cấp cứu có thể gây ra những di chứng nặng nề ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe của người phụ nữ, khả năng sinh sản và đời sống hạnh phúc gia đình, thậm chí dẫn đến tử vong nếu không được cấp cứu kịp thời. Tỷ lệ CNTC có xu hướng ngày càng gia tăng. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ CNTC từ 4,5/1000 các trường hợp mang thai năm 1970 tăng lên 1,11% giai đoạn 1997-1999 và 2% năm 2005 1. CNTC ở nước ta được xếp vào loại cao trên thế giới ~ 35,7/1000 thai kỳ năm 2000 2. Kết quả nghiên cứu tại Bệnh viện Phụ Sản Trung ương (BVPSTW) năm 2004 và 2009 tỉ lệ CNTC/tổng số đẻ lần lượt là 4,4% và 9,4% 3,4. Tại bệnh viện Từ Dũ, tỉ lệ này trong 4 năm từ 2000-2003 lần lượt là 3,07% - 3,88% - 4,04% - 4,27% 5. Tại Bệnh viện 19.8 tỉ lệ CNTC/ tổng số đẻ năm 2013 là 4,8%, năm 2014 là 5,3%, năm 2015-2016 là 6,12% 6. Sự gia tăng tần suất CNTC có liên quan đến các yếu tố như tiền sử nạo hút thai, biện pháp sinh đẻ có kế hoạch (đặt DCTC, dùng thuốc tránh thai đơn thuần liều thấp), tiền sử điều trị vô sinh, tiền sử phẫu thuật vùng tiểu khung, hút thuốc lá, ... Tiên lượng của bệnh phụ thuộc rất nhiều vào việc chẩn đoán sớm hay muộn và phương pháp xử trí 2,5,6. Cùng với sự gia tăng về tần suất chửa ngoài tử cung lần đầu thì chửa ngoài tử cung lần hai cũng tăng theo. Ở BVPSTW (1979-1980), số ca chửa ngoài tử cung lần hai là 10 ca cho đến năm (1999 - 2000) số ca chửa ngoài tử cung lần hai là 97 ca, tăng gấp 9 lần 4. Với sự tiến bộ trong chẩn đoán CNTC sớm cũng như kinh nghiệm điều trị phẫu thuật qua nội soi đã giúp tỉ lệ bảo tồn VTC tăng lên. Đồng thời các phương pháp hỗ trợ sinh sản trở nên phổ biến đã làm tăng tỷ lệ CNTC nói chung cũng như CNTC từ lần 2 nói riêng. Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội là một trong hai bệnh viện chuyên khoa tuyến cuối trong lĩnh vực Sản - Phụ khoa, thường xuyên được cập nhật những kỹ thuật mới nhất trong chẩn đoán và điều trị với mục tiêu chăm sóc sức khỏe toàn diện cho phụ nữ. Điều trị bệnh lý quý I thai kỳ là 1 trong 5 mảng quan trọng của Khoa trong đó có điều trị CNTC. Số liệu của phòng kế hoạch tổng hợp Bệnh viện cho thấy số bệnh nhân CNTC vào điều trị tại Khoa ngày càng tăng lên đạt con số 2237 ca CNTC năm 2018 và 2590 ca năm 2019. Nhằm tìm hiểu về việc chẩn đoán và xử trí CNTC trên bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật chửa ngoài tử cung tại vòi (CNTC từ lần 2) có gì khác biệt so với CNTC lần 1 góp phần nâng cao chất lượng chẩn đoán và điều trị CNTC, bảo vệ sức khỏe và khả năng sinh sản cho những người phụ nữ, chúng tôi thực hiện đề tài: “Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và xử trí chửa ngoài tủ cung từ lần 2 tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội”, với mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của CNTC từ lần 2 tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội năm 2019. 2. Nhận xét các phương pháp điều trị của những trường hợp CNTC trên.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1352
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21CKII0239.pdf
  Restricted Access
1.53 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.