Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1347
Title: NGHIÊN CỨU GIÁ TRỊ CỦA PROCALCITONIN HUYẾT THANH TRONG THEO DÕI ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN VIÊM NIÊM MẠC TỬ CUNG SAU ĐẺ
Authors: PHẠM THỊ THANH, THỦY
Advisor: PHẠM THIỆN, NGỌC
NGUYỄN QUẢNG, BẮC
Keywords: Hóa sinh y học
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Viêm niêm mạc tử cung sau đẻ là hình thái lâm sàng sớm và thường gặp nhất của nhiễm khuẩn hậu sản 1. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời dẫn đến thành những hình thái nhiễm khuẩn nặng nề hơn như viêm tử cung toàn bộ, viêm tử cung phần phụ, viêm phúc mạc tiểu khung, viêm phúc mạc toàn thể,…Trong đó nhiễm khuẩn huyết là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho mẹ 2, 3. Nghiên cứu do Trung tâm Kiểm soát bệnh dịch Châu Âu năm 2014 tỷ lệ nhiễm khuẩn hậu sản chung trên thế giới là 6% trong đó nhiễm khuẩn sau mổ là 7,4% và sau đẻ đường âm đạo là 5,5%.4 Theo Maccato M.L viêm niêm mạc tử cung sau đẻ đường âm đạo là 1 - 5% sau mổ đẻ là 85% ở quần thể có nguy cơ cao và việc dùng kháng sinh đã làm giảm tỉ lệ này giảm xuống còn 20% 5. Theo tác giả Bùi Thị Hằng thống kê bệnh nhân nhiễm khuẩn hậu sản tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương trong 2 năm 2004 và 2013 tỷ lệ này lần lượt là 1,4% và 1,1%, trong đó viêm niêm mạc tử cung là 87,7% và 91,3% 6, như vậy tỷ lệ này tuy có giảm nhưng không đáng kể. Trong những năm gần đây, rất nhiều dấu ấn sinh học (biomarker) được nghiên cứu ứng dụng chẩn đoán, tiên lượng và theo dõi điều trị bệnh nhiễm khuẩn như procalcitonin, CRP7, 8. Trong các dấu ấn này, hiện nay xét nghiệm CRP được coi là xét nghiệm thường quy trong chẩn đoán nhiễm khuẩn nói chung. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam đã cho thấy procalcitonin có giá trị chẩn đoán và tiên lượng nhiễm khuẩn cao hơn so với CRP 9, 10. Nồng độ procalcitonin tăng nhanh khi nhiễm khuẩn khoảng 2 – 4 giờ và giảm nhanh khi nhiễm khuẩn được kiểm soát, trong khi đó CRP tăng sau nhiễm khuẩn khoảng 6 giờ. 11, 12. Trên thế giới có nhiều nghiên cứu về nồng độ PCT huyết thanh ở bệnh nhân nhiễm khuẩn nặng, sốc nhiễm khuẩn, tiền sản giật, nhiễm khuẩn sau vỡ ối non, vỡ ối sớm, trẻ sinh ra sau vỡ ối non. Ở Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu về PCT, nhưng các nghiên cứu này mới tập trung ở đối tượng bệnh nhân nhiễm khuẩn huyết, nhiễm khuẩn phổi, nhiễm khuẩn nặng, hiện nay thực tế các bệnh nhân viêm niêm mạc tử cung sau đẻ không được chỉ định xét nghiệm PCT, vấn đề đặt ra là việc xét nghiệm PCT ở các bệnh nhân này có cần thiết hay không, việc sử dụng kháng sinh đã phù hợp chưa. Tuy nhiên, chúng tôi chưa thấy có nghiên cứu nào về nồng độ procalcitonin ở bệnh nhân viêm niêm mạc tử cung. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện đề tài với hai mục tiêu sau: 1. Xác định nồng độ Procalcitonin huyết thanh ở bệnh nhân viêm niêm mạc tử cung trước và sau điều trị. 2. Tìm hiểu mối liên quan giữa nồng độ Procalcitonin với một số triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng trước và sau điều trị viêm niêm mạc tử cung.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1347
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21CKII0234.pdf
  Restricted Access
1.75 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.