Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1338
Title: KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ NANG ỐNG MẬT CHỦ Ở NGƯỜI LỚN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
Authors: NGUYỄN THU, HÀ
Advisor: ĐỖ MẠNH, HÙNG
Keywords: Ngoại – Gan mật
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Nang ống mật chủ (OMC) là tình trạng giãn khu trú hay lan tỏa đường mật trong và ngoài gan. Đây là một bất thường giải phẫu bẩm sinh của đường mật được mô tả đầu tiên bởi Vater và Ezler năm 1723. Đến năm 1959 Alonso-Lej F, Revor W.B và Pessagno D.J là những người đầu tiên đưa ra phân loại cho bệnh này và các phương pháp điều trị khác nhau cho từng thể loại.1 Đa số các tác giả cho rằng nguồn gốc của u nang đường mật nói chung cũng như của nang OMC nói riêng là bẩm sinh vì bệnh thường được phát hiện ở trẻ em, hơn nữa trong 5% số các trường hợp có kèm theo các bất thường về giải phẫu của đường mật tụy.2 Nang OMC thường gặp ở trẻ nhỏ, theo Howard E.R. 60% được chẩn đoán trước 10 tuổi và hơn 2/3 các trường hợp được báo cáo có nguồn gốc từ các nước Châu Á, số NB phải nhập viện vì nang OMC tại các nước Châu Á là 1/1000, trong khi tại các nước Âu – Mỹ tỷ lệ này là 1/100000 và 1/150000 ở trẻ nhỏ. Bệnh thường gặp ở nữ nhiều hơn nam từ 3 đến 4 lần.1,2,3 Phần lớn NB bị nang OMC không có biểu hiện đầy đủ tam chứng cổ điển (đau bụng, vàng da và u bụng), các xét nghiệm hoá sinh chỉ phản ánh mức độ tắc mật và tình trạng nhiễm trùng đường mật hoặc chức năng của gan. Do vậy việc chẩn đoán chính xác nang OMC chủ yếu phụ thuộc vào các phương pháp chẩn đoán hình ảnh. Các phương tiện chẩn đoán hình ảnh bao gồm: siêu âm, chụp mật tụy ngược dòng, chụp mật qua da, chụp cắt lớp vi tính (CLVT), chụp cộng hường từ (CHT)…1,2 Biến chứng của nang OMC bao gồm: nhiễm trùng đường mật, viêm tuỵ, xơ gan tăng áp lực tĩnh mạch cửa và có thể thoái hoá ác tính (ung thư đường mật).1,2 Việc điều trị nang OMC đã thay đổi trong nhiều thập niên qua, phương pháp dẫn lưu nang hoặc tạo hình nang đã dần bị bác bỏ. Phương pháp điều trị bằng nối nang với tá tràng được thay thế bằng phương pháp nối nang với quai hỗng tràng biệt lập. Ngày nay phẫu thuật nội soi đang dần thay thế cho đường mổ kinh điển là đường trắng giữa trên rốn hoặc đường ngang dưới sườn phải để phẫu thuậtđiều trị bệnh nang OMC. Cùng với những ưu điểm vượt trội như thẩm mỹ, ít gây chấn thương bụng, thời gian phục hồi nhanh. Tại Việt Nam, một số trung tâm đã áp dụng phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý này từ năm 2008, nhưng đa số các tác giả chủ trương cắt nang, nối ống gan chung với hỗng tràng theo kiểu Roux-en-Y và mở nhỏ (5cm) dưới sườn phải để thực hiện miệng nối mật ruột cho kết quả khả quan.4,2 Trong khoảng 10 năm trở lại đây, một số trung tâm đã thực hiện phẫu thuật cắt nang ống mật chủ và thực hiện miệng nối mật ruột qua nội soi ở trẻ em. Tuy nhiên việc thực hiện kỹ thuật trên ở người lớn thì còn nhiều bàn cãi do số lượng NB ít. Do vậy chúng tôi thực hiện đề tài: “Kết quả điều trị nang ống mật chủ ở người lớn bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức giai đoạn 2016 – 2020” với 2 mục tiêu: 1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và các hình thái tổn thương nang ống mật chủ ở người lớn được điều trị bằng phẫu thuật nội soi tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi cắt nang ống mật chủ, nối ống gan chung – hỗng tràng trên quai Y ở nhóm người bệnh trên.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1338
Appears in Collections:Luận văn chuyên khoa 2

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21CKII0225.pdf
  Restricted Access
1.55 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.