Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1174
Title: ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ RÁCH CHÓP XOAY KHỚP VAI TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Authors: PHẠM DUY, HIỂN
Advisor: PGS.TS. Đào Xuân, Thành
Keywords: Ngoại khoa;8720104
Issue Date: 2020
Publisher: ĐHY
Abstract: Chóp xoay là 1 tổ hợp của 4 gân cơ trên gai, dưới gai, dưới vai, tròn bé bám vào đầu trên xương cánh tay. Cơ sinh học của chóp xoay có vai trò định tâm chính xác và giữ vững chỏm xương cánh tay vào ổ chảo xương bả vai làm cho khớp vai thực hiện các động tác linh hoạt: giạng, khép, xoay trong, xoay ngoài, đưa ra trước, ra sau. Rách chóp xoay là một trong những tổn thương phổ biến nhất ở khớp vai, là nguyên nhân đứng hàng thứ 3 về chăm sóc ban đầu của bệnh lý cơ xương khớp, chiếm hơn 4,5 triệu lượt người khám bệnh hàng năm tại Mỹ1. Rách chóp xoay chiếm 15-20 % ở người 60 tuổi, 26- 30% ở độ tuổi 70 và 36- 50% trong độ tuổi 802. Khoảng một phần ba số rách chóp xoay không biểu hiện sẽ xuất hiện triệu chứng trong nhiều năm3. Tổn thương xảy có thể liên quan đến chấn thương hoặc không. Khi xuất hiện, vết rách có thể tăng dần kích thước, chỏm xương cánh tay mất sự cân bằng giữa các nhóm cơ dẫn đến tiến triển lan rộng đến mức không thể khâu được, các cơ quanh khớp vai bị yếu trương lực, lâu dài dẫn tới thoái hóa khớp làm cho bệnh nhân đau đớn, hạn chế vận động khớp vai, gây ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động của người bệnh và gánh nặng kinh tế trong việc chăm sóc và điều trị. Hiểu biết thấu đáo về vai và chóp xoay rất quan trọng để chẩn đoán và điều trị thích hợp cho những bệnh nhân này. Điều trị rách chóp xoay phụ thuộc vào giai đoạn tổn thương, tình trạng và mức độ hoạt động thể lực của bệnh nhân. Điều trị bảo tồn bằng thuốc, vật lý trị liệu và tiêm corticoide vào khoang dưới mỏm cùng có tác dụng chống viêm và giảm đau trong một khoảng thời gian nhưng không thể phục hồi được những tổn thương rách chóp xoay4,5. Phẫu thuật khâu lại chỗ rách của chóp xoay có tác dụng giảm đau, phục hồi lại sự vững chắc của khớp, lấy lại vận động cơ năng của khớp và về lâu dài tránh được biến chứng. Vào năm 1906, Perthes6 đã báo cáo về một loạt ba phục hồi chóp xoay trong đó lần đầu tiên có neo khâu đã được sử dụng và năm 1911, Codman ở Mỹ lần đầu tiên báo cáo mô tả kỹ thuật phẫu thuật để phục hồi các tổn thương gân trên gai, được coi là một cột mốc quan trọng trong phẫu thuật rách chóp xoay7. . Tuy nhiên kết quả phục hồi chức năng chỉ đạt 60-70% và hay gặp biến chứng teo cơ delta. Những năm 1990 phẫu thuật nội soi khớp vai kết hợp với đường mở nhỏ được thực hiện và sau đó 2 thập kỷ, kỹ thuật nội soi khớp vai phát triển nhanh chóng mở đầu cho hàng loạt những nghiên cứu chuyên sâu về bệnh lý khớp vai, đánh giá chính xác thương tổn, các tổn thương phối hợp, đặc biệt chấn thương phẫu thuật ít hơn và sau mổ bệnh nhân tập vận động sớm hơn8. Tại Việt Nam, vấn đề chẩn đoán sớm và điều trị rách chóp xoay mới chỉ được quan tâm nhiều từ những năm 2000 trở lại đây cùng với sự phát triển của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh như chụp X quang, siêu âm, đặc biệt là cộng hưởng từ (MRI). Việc chẩn đoán dựa vào lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn phương pháp điều trị bảo tồn, phẫu thuật can thiệp bằng mổ mở hay nội soi. Bệnh viện Bạch Mai là một trong những bệnh viện áp dụng phương pháp phẫu thuật nội soi khớp vai khâu gân chóp xoay rách từ năm 2016. Tuy nhiên chưa có một nghiên cứu nào đánh giá về kết quả của phương pháp điều trị này tại đây. Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm hai mục tiêu: 1. Nhận xét đặc điểm lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh của rách chóp xoay khớp vai. 2. Đánh giá kết quả phẫu thuật nội soi điều trị rách chóp xoay khớp vai tại bệnh viện Bạch Mai.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1174
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
2020THS0125.pdf
  Restricted Access
3.83 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.