Please use this identifier to cite or link to this item: http://dulieuso.hmu.edu.vn/handle/hmu/1099
Title: NHẬN XÉT ĐẶC ĐIỂM HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ SINH THIẾT ĐÍCH TRONG CHẨN ĐOÁN UNG THƯ TUYẾN TIỀN LIỆT
Authors: ĐẶNG, ĐÌNH PHÚC
Advisor: TS. Hoàng, Đình Âu
TS. Lê, Tuấn Linh
Issue Date: 2020
Publisher: TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
Abstract: Ung thư tuyến tiền liệt là bệnh đứng đầu hệ tiết niệu và đứng thứ hai trong các bệnh ung thư ở nam giới1, chiếm 9% trong các ung thư mới được phát hiện hàng năm ở nam giới, chỉ sau ung thư phổi (17%). Tuy nhiên, đây là loại ung thư có tỷ lệ mắc bệnh khác nhau theo tuổi, địa lý và chủng tộc. Tại Mỹ, năm 1983-1984 tỷ lệ mắc chung là 75,3/100.000 nam giới, tỷ lệ tử vong là 22,7/100.0002. Tới năm 2012, ước tính có khoảng 1,1 triệu trường hợp được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt trên toàn thế giới, chiếm 15% tổng số tất cả các ung thư3. Đặc điểm lâm sàng ung thư tuyến tiền liệt diễn biến chậm trong nhiều năm và đa dạng, khi có biểu hiện triệu chứng thì đã ở giai đoạn muộn. Phát hiện sớm ung thư tuyến tiền liệt là vấn đề cần được quan tâm4. Trong các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán, chụp cộng hưởng từ là một phương tiện quan trọng trong việc chẩn đoán xác định và phân loại giai đoạn ung thư tuyến tiền liệt tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Theo một số nghiên cứu cộng hưởng từ có giá trị rất cao trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt với độ nhạy từ 69 - 95%, độ đặc hiệu từ 63 - 96%, độ chính xác 68 - 92%, giá trị dự báo dương tính 75 - 86%, giá trị dự báo âm tính 80 - 95%5. Việc đánh giá trên cộng hưởng từ đã và đang hỗ trợ cho việc nhận định chính xác vị trí tổn thương cùng tính chất ung thư tuyến tiền liệt. Để chẩn đoán xác định ung thư tuyến tiền liệt cần dựa vào thăm trực tràng, định lượng huyết thanh kháng nguyên đặc hiệu (PSA) và kết quả sinh thiết hệ thống, trong đó kết quả sinh thiết là chẩn đoán quyết định (tiêu chuẩn vàng). Sinh thiết có vai trò quyết định trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt, giai đoạn u và phương pháp điều trị bệnh6. Tuy nhiên, sinh thiết hệ thống tuyến tiền liệt qua đường trực tràng cũng có những nhược điểm nhất định. Đó là tỷ lệ âm tính giả trong chẩn đoán vẫn còn tương đối cao, đặc biệt là các trường hợp tổn thương ung thư trong giai đoạn sớm7. Đồng thời sinh thiết hệ thống cũng dẫn tới việc đánh giá sai mức độ ác tính khi các mẫu sinh thiết không đại diện cho tổn thương ung thư. Ngoài ra sinh thiết hệ thống còn đưa ra các kết quả không có nhiều ý nghĩa trên lâm sàng (quá sản lành tính, viêm, …)8. Trên thế giới có 03 cách sinh thiết đích tuyến tiền liệt: 1) hòa ảnh cộng hưởng từ với siêu âm để sinh thiết qua đường trực tràng dưới hướng dẫn của siêu âm, 2) sinh thiết trong máy cộng hưởng từ qua tầng sinh môn và 3) nhận biết đích trên cộng hưởng từ kèm đối chiếu trên siêu âm để hướng dẫn sinh thiét qua siêu âm trực tràng9. Trong 03 phương pháp, phương pháp (3) được đánh giá là cách thức thực hiện đơn giản, trang thiết bị sẵn có, chi phí hợp lý và mang lại hiệu quả tương đối cao10. Tại Việt Nam, phương pháp sinh thiết tuyến tiền liệt hệ thống dưới hướng dẫn của siêu âm trực tràng đã được triển khai trong nhiều năm và đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán cũng như điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, sinh thiết đích tuyến tiền liệt chưa được cơ sở nào triển khai cũng như chưa có đánh giá nào về phương pháp này. Chính vì vậy, tôi thực hiện đề tài “Nhận xét đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ và đánh giá kết quả sinh thiết đích trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt” với hai mục tiêu: 1. Đặc điểm hình ảnh cộng hưởng từ trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt. 2. Đánh giá kết quả sinh thiết đích dưới hướng dẫn siêu âm trong chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt.
URI: http://dulieuso.hmu.edu.vn//handle/hmu/1099
Appears in Collections:Luận văn thạc sĩ

Files in This Item:
File Description SizeFormat 
21THS1177.pdf
  Restricted Access
3.02 MBAdobe PDFThumbnail
 Sign in to read


Items in DSpace are protected by copyright, with all rights reserved, unless otherwise indicated.